Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Lý”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n replaced: Cả 3 → Cả ba using AWB
Dòng 74:
Trong thời đại này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu dài đến hơn 200 năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm. Vào năm [[1054]], [[Lý Thánh Tông]] đã đổi quốc hiệu từ '''Đại Cồ Việt''' (大瞿越) thành '''Đại Việt''' (大越), mở ra kỷ nguyên Đại Việt rực rỡ trong [[lịch sử Việt Nam]].
 
Trong nước, mặc dù các vị Hoàng đế đều sùng bái [[Phật giáo]] nhưng ảnh hưởng của [[Nho giáo]] cũng rất cao với việc mở các [[trường đại học]] đầu tiên là [[Văn miếu]] ([[1070]]) và [[Quốc Tử giám]] ([[1076]]) và tổ chức các khoa thi để chọn người hiền tài không có nguồn gốc xuất thân là [[quý tộc]] ra giúp nước. Khoa thi đầu tiên được mở vào năm [[1075]], và [[Trạng nguyên]] đầu tiên là [[Lê Văn Thịnh]]. Về thể chế [[chính trị]], đã có sự phân cấp quản lý rõ ràng hơn và sự cai trị đã dựa nhiều vào [[luật pháp|pháp luật]] hơn là sự chuyên quyền độc đoán của cá nhân. Sự kiện nhà Lý chọn thành [[Hà Nội|Đại La]] làm [[kinh đô]], đổi tên thành '''Thăng Long''' (昇龍) đã đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnh [[kinh tế]] và lòng dân hơn là sức mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước. Những danh thần như [[Lê Văn Thịnh]], [[Bùi Quốc Khái]], [[Doãn Tử Tư]], [[Đoàn Văn Khâm]], [[Lý Đạo Thành]], [[Tô Hiến Thành]],... đã góp sức lớn về văn trị và [[Chính trị|chính trị]], tạo nên một nền văn hiến rực rỡ của triều đại nhà Lý.
 
[[Quân sự nhà Lý|Quân đội nhà Lý]] được xây dựng có hệ thống đã trở nên hùng mạnh, ngoài chính sách [[Ngụ binh ư nông]], các Hoàng đế nhà Lý chủ trương đẩy mạnh các lực lượng [[thủy binh]], [[kỵ binh]], [[bộ binh]], [[tượng binh]],... cùng số lượng lớn vũ khí [[giáo]], [[mác]], [[cung (vũ khí)|cung]], [[nỏ]], [[khiên]] và sự hỗ trợ công cụ công thành như [[máy bắn đá]], những [[kỹ thuật]] tiên tiến nhất học hỏi từ quân sự [[Nhà Tống]]. Việc trang bị đầu tư và quy mô khiến quốc lực dồi dào, có đủ khả năng thảo phạt các [[bộ tộc]] man di ở [[biên giới]], cũng như [[quốc gia]] kình địch [[Hướng Nam|phía Nam]] là [[Chiêm Thành]] hay cướp phá thường xuyên, bảo vệ thành công [[lãnh thổ]] và thậm chí mở rộng hơn vào năm [[1069]], khi [[Lý Thánh Tông]] chinh phạt Chiêm Thành và thu về đáng kể diện tích lãnh thổ. Quân đội nhà Lý còn vẻ vang hơn khi đánh bại quân đội của [[Vương quốc Đại Lý]], [[Đế quốc Khmer]] và đặc biệt là sự kiện danh tướng [[Lý Thường Kiệt]] dẫn quân đội đánh phá vào lãnh thổ [[Nhà Tống]] vào năm [[1075]], dẫn đến [[Trận Như Nguyệt]] xảy ra trên đất Đại Việt và quân đội hùng mạnh của nhà Tống hoàn toàn thất bại.
 
Bên cạnh [[quân sự]], nhà Lý còn nổi tiếng về [[nghệ thuật]] với kinh đô Thăng Long phỏng theo mô hình kinh thành [[Trường An]] của [[nhà Đường]] và [[Khai Phong]] của [[nhà Tống]], tạo nên một quần thể kiến trúc vĩ đại và hoa lệ. Những hiện vật về mái ngói, linh thú trang trí trên nóc mái và các loại gạch lót cho thấy trình độ mỹ nghệ cao của các [[Nghệ nhân|nghệ nhân]] thời Lý. [[Rồng Việt Nam|Con Rồng thời Lý]] được xem là hình tượng đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình đương thời, bên cạnh các tượng Phật lớn còn lại cho thấy tư duy đồ sộ của người thời Lý là rất lớn. 3 trong 4 bảo vật của [[An Nam tứ đại khí]] là [[Tháp Báo Thiên]], [[Chuông Quy Điền]] và Tượng phật [[Chùa Quỳnh Lâm, Đông Triều|Chùa Quỳnh Lâm]] được tạo ra trong thời đại nhà Lý. Cùng với sự sùng đạo Phật, những tinh hoa nhất của nghệ thuật thời Lý đa phần đều thể hiện qua các bức tượng Phật, [[Chùa|chùa chiền]], phản ánh sự xa hoa tột độ của Phật giáo thời Lý.
[[Tập tin:Vietnam (1069).png|nhỏ|600px|phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lý (1009–1225).]]
 
Dòng 92:
Nhà sử học [[Lê Văn Hưu]] viết: ''Lý Công Uẩn người [[châu Cổ Pháp]] ([[Từ Sơn]], Bắc Ninh). Thuở nhỏ làm con nuôi nhà sư Lý Khánh Văn, theo học ở [[chùa Lục Tổ]] của sư Vạn Hạnh. Sau đó làm quan nhà Lê, giữ đến chức Điện tiền Chỉ huy sứ, chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư. Ông là người có học, có đức và có uy tín nên được triều thần nhà Lê quý trọng.''
 
Việc Lý Công Uẩn trưởng thành, thăng tiến trong bộ máy [[Nhà Tiền Lê|nhà Tiền Lê]] và lên ngôi vua có vai trò gây dựng rất lớn của thiền sư [[Vạn Hạnh]]<ref name="nhaly32">Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, sách đã dẫn, tr. 32-33.</ref>. Các nhà nghiên cứu thống nhất ghi nhận vai trò của [[Vạn Hạnh|sư Vạn Hạnh]] và Đào Cam Mộc trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi nhanh chóng, êm thấm và kịp thời, khiến cục diện chính trị nước [[Đại Cồ Việt]] được duy trì ổn định trong quá trình chuyển giao quyền lực, không gây xáo trộn từ trong cung đình lẫn bên ngoài<ref name="nhaly34">Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, sách đã dẫn, tr. 34.</ref>. Việc lên ngôi nhanh chóng và êm thuận của Lý Công Uẩn được xem là điều kiện thuận lợi và nền tảng để ông yên tâm bắt tay xây dựng đất nước thống nhất, mở đầu một vương triều thịnh vượng lâu dài<ref>Nguyễn Quang Ngọc, sách đã dẫn, tr. 72.</ref>, mở ra thời kỳ phục hưng toàn diện của đất nước<ref>Nguyễn Quang Ngọc, sách đã dẫn, tr. 103.</ref>.
 
===Dời đô về Đại La===
Dòng 247:
 
=== Nhận định ===
Đời sau xem sử 3 đời vua [[Lý Thái Tổ]], [[Lý Thái Tông]], [[Lý Thánh Tông]] kế tục nhau, từ việc sửa trị, đánh dẹp các cát cứ trong nước tới việc diễu võ với phương bắc, ra uy với phương Nam – những việc làm đó đều đặn thu được thành tựu, không hề thất bát, suy bại; vua sau đã thay nhưng vua trước như thể vẫn còn; nước [[Đại Cồ Việt]] trở thành [[Đại Việt]] tuần tự đi lên không bị suy sút, thua thiệt. Điều đó cho thấy một chính sách, tư tưởng nhất quán của các vua Lý. Cả 3ba vua đầu tiên của nhà Lý đều có tài văn võ kiêm toàn, kính Phật yêu dân, tuổi thọ cũng xấp xỉ nhau. 3 vị vua Lý này là những người đặt nền tảng cho một nhà Lý tồn tại bền vững hơn 200 năm, là [[triều đại]] đầu tiên truyền nối được lâu dài trong [[lịch sử Việt Nam]], chấm dứt thời kỳ đất nước liên tục thay đổi, 6 dòng họ thay nhau cai trị thời thế kỷ X. Nhà Lý xác lập được bộ máy nhà nước phong kiến quy củ, nề nếp, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển ổn định.
 
[[Lý Nhân Tông]] là vua trị vì lâu nhất trong [[lịch sử Việt Nam]] (56 năm). Võ công đánh bại cuộc xâm lăng của [[nhà Tống]] trên [[sông Cầu|sông Như Nguyệt]] thời [[Lý Nhân Tông]] thực chất là của những người phụ chính mà đội ngũ này được trưởng thành dưới thời [[Lý Thánh Tông|Thánh Tông]], do Thánh Tông cất nhắc, trọng dụng. Người theo thuyết nhân quả của [[Phật giáo|đạo Phật]] có thể cho rằng việc làm thất đức của Thái hậu [[Ỷ Lan]] (sát hại Hoàng thái hậu [[Thượng Dương hoàng hậu|Thượng Dương]] và các cung nữ của Thánh Tông) khiến vua con phải trả giá tuyệt tự.