Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ba tầm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 5:
==Nguồn gốc==
Theo tư liệu của [[người Pháp]] cuối [[thế kỷ XIX]], ''ba tầm'' được chuyển ngữ là '''Le chapeau de trois tầm'''<ref>[http://fanfic.truongan.name/?p=6499 Nón]</ref> (3 fois 8 pouces: 1m20), trong đó, ''tầm'' là đơn vị đo chiều dài của [[người]] [[Á Đông]].Theo [[sách]] ''[[Vũ trung tùy bút]]'', [[nón]] ba tầm được kết hợp kiểu dáng của các thứ [[nón]] dâu, ngoan xác và viên cơ.
* '''Ngoan xác lạp(黿殼笠)'''<ref name="Góc Nhìn">{{chú thích web|url=http://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?88|title=Nón đội|format=HTML|first=N|last=G|publisher=Góc Nhìn}}</ref>(''nón mền giải'',''nón tam giang'')dùng cho [[người già]] thời [[Lê trung hưng]] nay không còn biết kiểu dáng ra sao,đã thất truyền cuối [[thế kỷ XVIII]]
* '''Toan bì lạp(酸皮笠)'''(''nón vỏ bứa'')dànhdùng cho người nghèo,là [[nón]] giản lược làm cho thấp đi từ ngoan xác lạp
* '''Dâu'''Cổ Châu lạp(古洲笠)hoặc Dâu'''Giâu''('''; Les chapeaux des brus)''dùng cho Họ hàng nhà quan mà cao tuổi,Đàn ông,đàn bà, đỉnhthứ trong kinh thành.''Đỉnh nhọn và có vành phẳng đính đôi chùm chỉ [[thao]].
* '''Viên cơ lạp(圓箕笠)'''<ref name="Góc Nhìn"/>xuất hiện ở miền [[Thanh Hóa|Thanh]] [[Nghệ An|Nghệ]] (nên còn có tên là ''nón nghệ'', ''le chapeau de Nghệ-an''),dùng cho [[binh sĩ|quân sĩ]] khi cuộc [[Loạn kiêu binh]]
{{cquote|Khi ta lên tám chín tuổi, thấy các ông già đội''ngoan xác lạp黿殼笠'', tục gọi là nón"mền giải嫩牟" hay là nón"tam giang lạp三江笠"; con nhà quan và học sinh các học hiệu thì đội''phương đẩu đại lạp方斗大笠'', tục gọi là"nón lá"; họ hàng nhà quan và các ông già thì đội''cổ châu lạp古洲笠'',tục gọi là "nón dâu"; người lớn và trẻ con đội''liên diệp lạp蓮葉笠'',tục gọi là "nón lá sen"; con trai con gái, đàn ông đàn bà ở chốn kinh kỳ đội cổ châu lạp, trẻ con đội''tiểu liên diệp lạp小蓮葉笠'', tục gọi là "nón nhỡ khuôn"; đàn ông đàn bà thôn quê, đội''xuân lôi tiểu lạp lạp春雷小笠'',tục gọi là "nón sọ nhỏ"; lính tráng đội''trạo lạp掉笠'', tục gọi là"nón chèo vành"; người hầu hạ và vợ con lính tráng đội ''viên đẩu lạp圓斗笠'', tục gọi là "nón khua"; nhà sư và thầy tu đội''cẩu diện lạp笱面笠'', tục gọi là "nón mặt lờ"; người có tang đội''xuân lôi đại lạp春雷大笠'', tục gọi là "nón cạp"; người có chở một năm trở xuống đội cổ châu lạp古洲笠, quai mây, chỉ có nhà quan và nhà quyền thế có tang thì đội cẩu diện lạp để phân biệt. Người trong Thanh Nghệ đội''viên cơ lạp圓箕笠'', tục gọi là "nón nghệ". Người Mán Mường ở ngoại trấn đội nón ''tiêm quang đẩu nhược'', hình như nón khua, đầu nhọn, làm bằng vỏ măng nứa, khác với người mọi nơi. Đến khoảng năm Nhâm Dần - Quý Mão, quân Tam phủ dấy loạn, cậy công làm càn, nhiều người đội nón viên cơ, để lẫn với quân lính. Đến năm Bính Ngọ trong nước có biến, lại bỏ viên cơ lạp圓箕笠, đội cẩu diện lạp笱面, người có tang một năm trở xuống, buộc quai sợi trắng để phân biệt. Ở thôn quê, theo dáng ngoan xác lạp黿殼 mà làm thấp đi, gọi là''toan bì lạp酸皮笠'', tục gọi là "nón vỏ bứa", thỉnh thoảng lại có người đội xuân lôi tiểu lạp雷小笠者; còn những thứ nón tam giang三江, ngoan xác黿殼, phương đẩu方斗, viên đẩu, cổ châu古洲, liên diệp蓮葉 và trạo lạp掉笠 thì không thấy nữa.|||[[Phạm Đình Hổ]], ''[[Vũ trung tùy bút]]''<ref>Đông Châu [[Nguyễn Hữu Tiến (nhà nghiên cứu)|Nguyễn Hữu Tiến]] dịch, [[Nguyễn Quảng Tuân]] khảo đính và chú thích, [[Nhà xuất bản Trẻ]], [[Sài Gòn]], 1989.</ref>}}
==Đặc điểm==
[[Nón]] ba tầm được lợp bằng [[lá]] [[cọ]] hoặc [[gồi]], có hình dạng như cái [[lọng]] hoặc [[tai]] [[nấm]], đỉnh phẳng, đường kính [[nón]] khoảng 70–80&nbsp;cm, vành cao 10–12&nbsp;cm hoặc hơn. Lòng [[nón]] đính 1 cái vành hình [[phễu]] gọi là ''khùa'' hoặc ''khua'' ([[Nôm]]: 摳) để gia cố [[nón]] trên đầu người sử dụng. Ngoài ra, người ta thường kết vào vành [[nón]] đôi chùm [[chỉ]] [[thao]] sặc sỡ để làm duyên, là '''''nón quai thao''''' ([[Nôm]]: 𥶄乖絛).