Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ba tầm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Sửa lỗi dấu cách sau dấu phẩy.
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
* '''Ngoan xác lạp (黿殼笠)'''<ref name="Góc Nhìn">{{chú thích web|url=http://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?88|title=Nón đội|format=HTML|first=N|last=G|publisher=Góc Nhìn}}</ref> '''(''nón mền giải 蟹'', ''Tam Giang lạp 三江笠'')''' dùng cho [[người già]] thời [[Lê trung hưng]], đã thất truyền cuối [[thế kỷ XVIII]].
* '''Toan bì lạp (酸皮笠) (''nón vỏ bứa'')''' dùng cho người nghèo, là [[nón]] giản lược làm cho thấp đi từ ngoan xác lạp. Thời Nguyễn, gọi là Thủy Thủ lạp.
* '''Cổ Châu lạp (古洲笠) (hoặc nón Dâudậu) (''Les chapeaux des br'''''<nowiki/>'''''us)''''' ''dùng cho Họ hàng nhà quan''<nowiki/> ''mà cao tuổi,Đàn ông,đàn bà,sĩ thứ trong kinh thành.''Đỉnh nhọn và có vành phẳng đính đôi chùm chỉ [[thao]].
* '''Viên cơ lạp (圓箕笠)'''<ref name="Góc Nhìn"/> xuất hiện ở miền [[Thanh Hóa|Thanh]] [[Nghệ An|Nghệ]]. Thời Lê, dùng cho [[binh sĩ|quân sĩ]] khi cuộc [[Loạn kiêu binh]] với dáng cao,gần giống như cái nia thóc (kết cấu gần mũ quan Đại Thanh). Thời Nguyễn,''giản lược thành nón nhỏ như nón thúng nhưng vát vuông góc'', nhỏ hơn ba tầm gọi '''''là nón nghệ'' (''le chapeau de Nghệ-an'')''' dành cho nữ'''. Nón thúng (mục đồng lạp, Chapeau en forme de panier)''' dùng cho nam nữ làm đồng có dáng vát thon vào so với nón nghệ
{{cquote|Khi ta tám tuổi, thấy các ông già đội "ngoan xác lạp 黿殼笠", tục gọi là nón "mền giải 蟹" hay "tam giang lạp 三江笠"; con nhà quan và học sinh các học hiệu thì đội "phương đẩu đại lạp 方斗大笠", tục gọi là "nón lá"; họ hàng nhà quan và các ông già thì đội "cổ châu lạp 古洲笠", tục gọi là "nón dâu"; người lớn và trẻ con đội ''liên diệp lạp 蓮葉笠'', tục gọi là "nón lá sen"; con trai con gái, đàn ông đàn bà ở chốn kinh kỳ đội cổ châu lạp, trẻ con đội "tiểu liên diệp lạp 小蓮葉笠'', tục gọi là "nón nhỡ khuôn"; đàn ông đàn bà thôn quê, đội "xuân lôi tiểu lạp 春雷小笠", tục gọi là "nón sọ nhỏ"; lính tráng đội "trạo lạp 掉笠", tục gọi là "nón chèo vành"; người hầu hạ và vợ con lính tráng đội ''viên đẩu lạp 圓斗笠'', tục gọi là "nón khua"; nhà sư và thầy tu đội "cẩu diện lạp 笱面笠", tục gọi là "nón mặt lờ"; người có tang đội "xuân lôi đại lạp 春雷大笠", tục gọi là "nón cạp"; người có chở một năm trở xuống đội "cổ châu lạp 古洲笠", quai mây, chỉ có nhà quan và nhà quyền thế có tang thì đội "cẩu diện lạp" để phân biệt. Người trong Thanh Nghệ đội "viên cơ lạp 圓箕笠", tục gọi là "nón nghệ". Người Mán Mường ở ngoại trấn đội nón "tiêm quang đẩu nhược", hình như nón khua, đầu nhọn, làm bằng vỏ măng nứa, khác với người mọi nơi. Đến khoảng năm Nhâm Dần - Quý Mão, quân Tam phủ dấy loạn, cậy công làm càn, nhiều người đội nón viên cơ, để lẫn với quân lính. Đến năm Bính Ngọ trong nước có biến, lại bỏ viên cơ lạp 圓箕笠, đội cẩu diện lạp 笱面, người có tang một năm trở xuống, buộc quai sợi trắng để phân biệt. Ở thôn quê, theo dáng ngoan xác lạp 黿殼 mà làm thấp đi, gọi là "toan bì lạp 酸皮笠", tục gọi là "nón vỏ bứa", thỉnh thoảng lại có người đội xuân lôi tiểu lạp 雷小笠者; còn những thứ nón tam giang 三江, ngoan xác 黿殼, phương đẩu 方斗, viên đẩu, cổ châu 古洲, liên diệp 蓮葉 và trạo lạp 掉笠 thì không thấy nữa.|||[[Phạm Đình Hổ]], ''[[Vũ trung tùy bút]]''<ref>Đông Châu [[Nguyễn Hữu Tiến (nhà nghiên cứu)|Nguyễn Hữu Tiến]] dịch, [[Nguyễn Quảng Tuân]] khảo đính và chú thích, [[Nhà xuất bản Trẻ]], [[Sài Gòn]], 1989.</ref>}}