Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 186:
{{chính|Ngôn ngữ tại Việt Nam}}
{{xem thêm|Tiếng Việt}}
[[Ngôn ngữ quốc gia]] của Việt Nam là [[tiếng Việt]], một ngôn ngữ thuộc [[Ngữ hệ Nam Á]] (Môn-Khmer), là ngôn ngữ của [[người Kinh]] và được nói bởi phần lớn dân số. Trong lịch sử ban đầu của nó, văn tự tiếng Việt đã sử dụng [[chữ Hán]], sau này xuất hiện thêm [[chữ Nôm]] dựa trên chất liệu chữ Hán hình thành từ khoảng thế kỷ 7 tới thế kỷ 13.{{sfn|Zwartjes|2011|p=292}}{{sfn|Choy|2013|p=340}}{{sfn|Dinh Tham|2018|p=67}} Tác phẩm văn học [[Truyện Kiều]] (tên gốc ''Đoạn trường tân thanh'') do đại thi hào [[Nguyễn Du]] sáng tác được viết bằng chữ Nôm.{{sfn|Ozolinš|2016|p=130}} [[Chữ Quốc ngữ]], hệ chữ dùng [[Bảng chữ cái Latinh|ký tự Latinh]] để viết tiếng Việt, được phát triển vào thế kỷ 17 bởi các nhà truyền giáo [[Dòng Tên]] như [[Francisco de Pina]] và [[Alexandre de Rhodes]] dựa trên các bảng chữ cái của [[nhóm ngôn ngữ Rôman]], đặc biệt là [[Tiếng Bồ Đào Nha|bảng chữ cái Bồ Đào Nha]], sau này được sử dụng rộng rãi thông qua các định chế và phong trào Việt Nam thời kỳ [[Pháp thuộc]].{{sfn|Zwartjes|2011|p=292}}{{sfn|Jacques|1998|p=21}} Các nhóm thiểu số ở Việt Nam nói nhiều ngôn ngữ, bao gồm: [[tiếng Tày]], [[tiếng Mường]], [[tiếng Chăm]], [[tiếng Khmer]], [[tiếng Hán]], [[tiếng Nùng]] và [[tiếng H'Mông]]. [[Người Thượng]] thường sống ở [[Tây Nguyên]] cũng nói một số ngôn ngữ riêng biệt, một số ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo và những ngôn ngữ khác [[ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo]].{{sfn|Trung tâm Tài nguyên định hướng Văn hóa|p=10}} Trong những năm gần đây, một số [[Ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam|ngôn ngữ ký hiệu]] đã được phát triển tại các thành phố lớn.
 
[[Tiếng Pháp]], một di sản của [[Pháp thuộc|chế độ thuộc địa]], được nhiều [[người Việt Nam]] có học là ngôn ngữ thứ hai, đặc biệt là trong thế hệ cũ và những người được giáo dục ở [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam]], nơi đây là ngôn ngữ chính hành chính, giáo dục một thương mại. Việt Nam vẫn là thành viên của [[Cộng đồng Pháp ngữ]] (''La Francophonie'') và giáo dục đã làm hồi sinh một số mối quan tâm đến ngôn ngữ.{{sfn|Thượng viện Pháp|1997}} [[Tiếng Nga]], và ở mức độ thấp hơn là [[tiếng Đức]], [[tiếng Séc]] và [[tiếng Ba Lan]] được biết đến trong một số người [[miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]] có quan hệ với [[Khối Đông Âu]] trong [[Chiến tranh Lạnh]].{{sfn|Van Van|p=8}} Với mối quan hệ được cải thiện với các nước phương Tây và những cải cách gần đây trong quản trị Việt Nam, [[tiếng Anh]] ngày càng được sử dụng như ngôn ngữ thứ hai và việc học tiếng Anh giờ đây bắt buộc hầu hết các trường học bên cạnh hoặc thay thế cho tiếng Pháp.{{sfn|Van Van|p=9}}{{sfn|Bộ thương mại quốc tế Vương quốc Anh|2018}} Sự phổ biến của [[tiếng Nhật]] và [[tiếng Triều Tiên]] cũng gia tăng lên khi mối quan hệ của đất nước này với các quốc gia Đông Á khác được tăng cường.{{snf|Wai-ming|2002|p=3}}{{sfn|Anh Dinh|2016|p=63}}{{sfn|Hirano|2016}}