Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ba tầm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n dọn dẹp, replaced: . < → .< (4)
n clean up, replaced: → (4), 1 cái → một cái using AWB
Dòng 11:
{{cquote|Khi ta tám tuổi, thấy các ông già đội "ngoan xác lạp 黿殼笠", tục gọi là nón "mền giải 蟹" hay "tam giang lạp 三江笠"; con nhà quan và học sinh các học hiệu thì đội "phương đẩu đại lạp 方斗大笠", tục gọi là "nón lá"; họ hàng nhà quan và các ông già thì đội "cổ châu lạp 古洲笠", tục gọi là "nón dâu"; người lớn và trẻ con đội ''liên diệp lạp 蓮葉笠'', tục gọi là "nón lá sen"; con trai con gái, đàn ông đàn bà ở chốn kinh kỳ đội cổ châu lạp, trẻ con đội "tiểu liên diệp lạp 小蓮葉笠'', tục gọi là "nón nhỡ khuôn"; đàn ông đàn bà thôn quê, đội "xuân lôi tiểu lạp 春雷小笠", tục gọi là "nón sọ nhỏ"; lính tráng đội "trạo lạp 掉笠", tục gọi là "nón chèo vành"; người hầu hạ và vợ con lính tráng đội ''viên đẩu lạp 圓斗笠'', tục gọi là "nón khua"; nhà sư và thầy tu đội "cẩu diện lạp 笱面笠", tục gọi là "nón mặt lờ"; người có tang đội "xuân lôi đại lạp 春雷大笠", tục gọi là "nón cạp"; người có chở một năm trở xuống đội "cổ châu lạp 古洲笠", quai mây, chỉ có nhà quan và nhà quyền thế có tang thì đội "cẩu diện lạp" để phân biệt. Người trong Thanh Nghệ đội "viên cơ lạp 圓箕笠", tục gọi là "nón nghệ". Người Mán Mường ở ngoại trấn đội nón "tiêm quang đẩu nhược", hình như nón khua, đầu nhọn, làm bằng vỏ măng nứa, khác với người mọi nơi. Đến khoảng năm Nhâm Dần - Quý Mão, quân Tam phủ dấy loạn, cậy công làm càn, nhiều người đội nón viên cơ, để lẫn với quân lính. Đến năm Bính Ngọ trong nước có biến, lại bỏ viên cơ lạp 圓箕笠, đội cẩu diện lạp 笱面, người có tang một năm trở xuống, buộc quai sợi trắng để phân biệt. Ở thôn quê, theo dáng ngoan xác lạp 黿殼 mà làm thấp đi, gọi là "toan bì lạp 酸皮笠", tục gọi là "nón vỏ bứa", thỉnh thoảng lại có người đội xuân lôi tiểu lạp 雷小笠者; còn những thứ nón tam giang 三江, ngoan xác 黿殼, phương đẩu 方斗, viên đẩu, cổ châu 古洲, liên diệp 蓮葉 và trạo lạp 掉笠 thì không thấy nữa.|||[[Phạm Đình Hổ]], ''[[Vũ trung tùy bút]]''<ref>Đông Châu [[Nguyễn Hữu Tiến (nhà nghiên cứu)|Nguyễn Hữu Tiến]] dịch, [[Nguyễn Quảng Tuân]] khảo đính và chú thích, [[Nhà xuất bản Trẻ]], [[Sài Gòn]], 1989.</ref>}}
==Đặc điểm==
[[Nón]] ba tầm được lợp bằng [[lá]] [[cọ]] hoặc [[gồi]], có hình dạng như cái [[lọng]] hoặc [[tai]] [[nấm]], đỉnh phẳng, đường kính [[nón]] khoảng 70–80&nbsp;cm, vành cao 10–12&nbsp;cm hoặc hơn. Lòng [[nón]] đính 1một cái vành hình [[phễu]] gọi là ''khùa'' hoặc ''khua'' ([[Nôm]]: 摳) để gia cố [[nón]] trên đầu người sử dụng. Ngoài ra, người ta thường kết vào vành [[nón]] đôi chùm [[chỉ]] [[thao]] sặc sỡ để làm duyên, là '''''nón quai thao''''' ([[Nôm]]: 𥶄乖絛).
 
==Nghệ thuật hóa==
{|class="wikitable sortable"
|- bgcolor="#B3B3B3"
! [[Ca dao]] cổ !! [[Quan họ]] ''[[Lý cây đa]]'' !! [[Thi phẩm]] ''Chiếc nón quai thao''<br>của [[nữ]] [[thi sĩ]] [[Anh Thơ (nhà thơ)|Anh Thơ]] !! [[Ca khúc]] ''Du xuân''<br>của [[nhạc sĩ]] [[An Thuyên]] !! [[Ca khúc]] ''Tơ hồng''<br>của [[nhạc sĩ]] [[Nhất Sinh]]
|-
| ''Chưa chồng nón thúng quai thao,''<br>''Chồng rồi nón rách quai nào thì quai.''<br>''Chưa chồng yếm thắm đeo hoa,''<br>''Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành.''
||
''Trèo lên quán dốc ngồi gốc í a cây đa,<br>Rằng tôi lý ối a cây đa''<br>''Rằng tôi lới ối a cây đa'',<br>Ai đem ôi à tính tang tình rằng,<br>Cho đôi mình gặp<br> Xem hội cái đêm hôm rằm rằng tôi lý ối a cây đa <br> rằng tôi lới ối a cây đa
 
Chẻ tre đan nón, kìa nón í a ba tằm <br> Rằng tôi lý ối a ba tằm''<br>''Rằng tôi lới ối a ba tầm'',<br>Ai đem ôi à tính tang tình rằng,<br>Cho cô mình đội<br> Xem hội cái đêm trăng rằm rằng tôi lý ối a tháng Giêng <br> rằng tôi lới ối a tháng Giêng
 
Vải nâu may áo, kìa áo ới viền năm tà <br>Rằng tôi lý ối a năm tà''<br>''Rằng tôi lới ối viền năm tà'',<br>Ai đem ôi à tính tang tình rằng,<br>Cho cô mình mặc<br> Xem hội cái đêm trăng rằm rằng tôi lý ối a sáng trăng <br> rằng tôi lới ối đêm sáng trăng
 
||