Đồng (đơn vị tiền cổ)

đơn vị tiền tệ cổ Việt Nam

Đồng (tiếng Trung: văn tiền; chữ Nôm: đồng tiền; tiếng Pháp: sapèque)[a][b] là loại tiền xu tròn khoét lỗ hình vuông ở giữa, được dùng làm tiền tệ chính thức của Việt Nam từ thời nhà Đinh năm 970 đến thời nhà Nguyễn năm 1945, và vẫn được lưu hành ở miền Bắc Việt Nam cho đến năm 1948. Loại tiền tương tự cũng được lưu hành ở Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Lưu Cầu trong nhiều thế kỷ. Mặc dù phần lớn tiền xu của Việt Nam trong suốt lịch sử là tiền đồng, tiền chì, sắt (từ năm 1528) và kẽm (từ năm 1740) cũng được lưu hành song song với tỷ giá dao động (1 đồng tiền mặt bằng 10 đồng kẽm vào năm 1882) [7]. Lý do tại sao tiền xu làm từ kim loại có giá trị nội tại thấp được giới thiệu là do có nhiều mê tín liên quan đến việc người Việt chôn tiền mặt, với việc người dân chôn tiền mặt trở thành một vấn nạn lớn đối với chính quyền vì hầu như tất cả các tiền xu do chính quyền phát hành đều có xu hướng được chôn chỉ vài tháng sau khi chúng được đưa vào lưu hành. Vì những đồng xu giá trị thấp này có xu hướng rất dễ vỡ, chúng sẽ phân hủy nhanh hơn nếu được chôn cất, khiến cho người Việt ngừng chôn tiền [8][9].

Đồng
Hán-Việt: (Văn)
Chữ Nôm: (Đồng)
Tiếng Pháp: Sapèque
Đồng tiền đầu tiên và cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam:
Thái Bình Hưng Bảo (太平興寶) lưu hành dưới thời nhà Đinh.
Bảo Đại Thông Bảo (保大通寶) lưu hành dưới thời vua Bảo Đại (1925–1945).
Ngày ra đời970
Sử dụng tạiViệt Nam,  Liên bang Đông Dương (tới năm 1945),  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tới năm 1948)
Đơn vị lớn hơn
 10Phân (分)
 36–60Mạch (陌) / Tiền (錢)
 360–600Quán (貫) / Nguyên (元)[1][2][3]
 20Đồng (銅)
Ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giữa năm 1947 and 1948, tương dương 5 xu (樞).
Hộp thông tin này hiển thị trạng thái mới nhất trước khi tiền tệ này bị loại bỏ.
Đồng tiền cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam với bốn chữ "Bảo Đại Thông Bảo" (保大通寶)
Bảo Đại (1925-1945); mặt kia ghi "thập văn" tức mệnh giá 10 đồng

Phát âm

Sapèque

Chữ "sapèque" cho tiền xu trong tiếng Pháp đến từ chữ sa pek hoặc sa pe trong tiếng Mã Lai với nghĩa là "một pe(k)" (pek, hoặc pie, một dạng tiền tệ), vốn xuất thân từ chữ tiếng Hán Peku / Pak (百, từ Hán-Việt: bách), nghĩa là "một-trăm" [10][11]. Nguồn gốc của thuật ngữ này có thể xuất phát từ một thực tế là tiền xu thường được xâu lại với nhau thành chuỗi khoảng một trăm mảnh [10]

Người Pháp sử dụng thuật ngữ "sapèque" ở Ma Cao và ban đầu sử dụng nó để gọi tên các loại tiền xu của Trung Quốc nhưng sau đó cũng áp dụng thuật ngữ này cho tiền xu Việt Nam [10].

Đon vị tiền tệ

Theo truyền thống, các đơn vị cơ bản của tiền tệ Việt Nam là quan (貫), tiềnđồng. Một quan bằng 10 tiền và một tiền từ 50 đến 100 đồng, tùy thuộc vào thời đại. Từ thời Trần Thái Tông trở đi, 1 tiền bằng 69 đồng trong các giao dịch thương mại thông thường nhưng lại bằng 70 đồng trong các giao dịch chính thức. Từ thời Lê Thái Tổ, 1 tiền được quy thành 50 đồng. Trong thời Nam–Bắc triều, bắt đầu từ năm 1258, đường kính của tiền xu được giảm từ 24 milimét (0,94 in) xuống còn 23 milimét (0,91 in) và được pha loãng với kẽm và sắt. Tiền xu mỏng hơn được gọi tiền gián hoặc sử tiền, nhằm để phân biệt với tiền quý hoặc cổ tiền dày hơn. Một quan tiền quý tương đương 600 đồng, trong khi 1 quan tiền gián chỉ bằng 360 đồng [12]. Dưới thời nhà Hậu Lê, 1 tiền bằng 60 đồng; do vậy 600 đồng bằng 1 quan. Vào thời nhà Nguyên, thương nhân người Việt ở biên giới với Trung Quốc sử dụng tỷ giá 1 tiền bằng 67 đồng. Tiền kẽm bắt đầu xuất hiện ở Đại Việt vào khoảng thế kỷ 18. Một xu tiền đồng bằng 3 xu tiền kẽm. Bắt đầu từ thời vua Gia Long, cả tiền đồng và tiền kẽm đều được sử dụng. Ban đầu hai loại tiền xu này có giá trị ngang nhau, nhưng cuối cùng tiền đồng có giá trị tăng lên gấp đôi tiền kẽm, rồi gấp ba, rồi gấp sáu, cho đến thời vua Thành Thái, nó có giá trị gấp mười lần một đồng tiền kẽm.

Lịch sử

Nhà Đinh và nhà Tiền Lê

Tiền xu đầu tiên của người Việt được đúc dưới thời nhà Đinh với sự xuất hiên của Thái Bình Hưng Bảo () vào đời Đinh Tiên Hoàng [13]. Tuy vậy trong 2 thế kỷ tiếp theo, tiền xu vẫn là một thứ hiếm gặp trong cuộc sống hàng ngày của thường dân vì chuyển đổi hàng hóa vẫn là hình thức buôn bán phổ biến dưới thời nhà Đinh và Tiền Lê [14].

Nhà Lý

Nhìn chung tiền xu do người Việt sản xuất từ thời Lý Thái Tông trở đi có chất lượng kém hơn so với các loại tiền xu của Trung Quốc [15]. Chúng thường được sản xuất với các thành phần kim loại kém hơn và được đút mỏng và nhẹ hơn so với tiền xu Trung Quốc do tình trạng thiếu đồng trầm trọng trong thời nhà Lý [16]. Điều này đã tạo cảm hứng cho các thương nhân Trung Quốc đúc lại tiền xu Trung Quốc để xuất khẩu sang Việt Nam, khiến cho một lượng tiền xu dồi dào được lưu hành trong nước dẫn đến việc nhà Lý phải đình chỉ việc đúc tiền trong 5 thập kỷ [16].

Nhà Trần

Việc sản xuất tiền xu kém chất lượng vẫn tiếp tục diễn ra dưới thời nhà Trần [17]. Việc đút tiền xu bởi cả chính phủ lẫn tư nhân đều diễn ra ở quy mô lớn vào thời nhà Trần [10].

Vào thời Trần Dụ Tông, tiền xu của người Việt được đúc nhiều nhất, do một số thiên tai như mùa màng thất bát dưới triều đại của ông khiến cho nhà Trần phải phát hành nhiều tiền xu hơn cho dân chúng để đền bù [17]. Các cuộc đấu tranh chính trị trong nội bộ của nhà Trần đã khiến cho việc sản xuất tiền xu chấm dứt và do đó không có tiền xu nào được sản xuất trong suốt thời gian trị vì của 7 vị vua cuối cùng của nhà Trần [17].

Nhà Hồ

Trong thời nhà Hồ, việc sử dụng tiền xu đã bị Hồ Quý Ly cấm vào năm 1396 với sự ban hành của tiền giấy Thông Bảo Hội Sao () và ông ra lệnh cho mọi người đổi tiền xu của họ lấy tiền giấy (với tỷ giá 1 quan tiền đồng đổi lấy 2 tờ Thông Bảo Hội Sao) [18], những người từ chối trao đổi hoặc tiếp tục thanh toán bằng tiền xu sẽ bị xử tử và bị chính phủ thu giữ tài sản. Bất chấp những luật lệ hà khắc này, rất ít người dân dùng tiền giấy và tiền kim loại vẫn được lưu hành rộng rãi buộc nhà Hồ phải rút lại các chính sách này [19][20][21]. Tiền giấy Thông Bảo Hội Sao của nhà Hồ được thiết kế nổi bật với hình ành rong biển, sóng nước, mâyrùa [22]. Dưới thời nhà Hồ, tiền Thánh Nguyên Thông Bảo (聖元通寶) và Thiệu Nguyên Thông Bảo (紹元通寶) chỉ được sản xuất với số lượng nhỏ, nhưng nhà Hậu Lê sau này cũng sản xuất tiền xu có cùng dòng chữ trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ sau với số lượng lớn hơn [23][24].

Nhà Lê, nhà Mạc và Lê trung hưng

Từ thời nhà Mạc năm 1528 tiền đồng lại chia thành hai hạng: tiền gián và tiền quý.[25] Tiền gián mỏng và xấu hơn nên giá trị thấp hơn, chủ yếu chỉ dùng trong dân gian buôn bán với nhau còn trao đổi với triều đình như việc đóng thuế thân hay các lệ phí thì phải nộp bằng tiền quý.

Nhà Tây Sơn

Nhà Nguyễn

Trước thời thuộc địa

Thời Pháp thuộc

Đến thời Pháp thuộc thì loại tiền cổ dần bị đồng bạc Đông Dương thay thế và những đơn vị quan, tiền cũng bỏ dần.

Đơn vị tiền cổ (trước năm 1945)
Tên gọi đơn vịChữ NhoGiá trị tại Việt NamGiá trị tại Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Hoa,
Đồng文 Văn--
Xu (thời Pháp thuộc)分 Phân10 đồng10 đồng
1 tiền陌 Mạch36-60 đồng100 đồng
1 quan貫 Quán, 元 Nguyên360-600 đồng1000 đồng

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Sau chiến tranh

Ghi chú

Liên kết bên ngoài