12 sứ quân

12 sứ quân là những vị thủ lĩnh chiếm giữ các vùng lãnh thổ để hình thành lên thời kỳ loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt Nam. Tên tuổi của họ được chép trong các chính sử như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư,... Cuốn chính sử "Lịch triều hiến chương loại chí" còn trang trọng xếp 12 sứ quân vào danh sách dòng chính thống các bậc đế vương bởi trong số các sứ quân cai trị nhiều người đã xưng Vương hoặc được tôn xưng là Vương và đóng góp nhiều cho cuộc sống người Việt thời bấy giờ. Hiện nay có rất nhiều di tích ở Việt Nam thờ các vị thủ lĩnh này.

Danh sách các sứ quân

Đến năm 966, hình thành đầy đủ 12 sứ quân chiếm giữ các địa phương:

  1. Ngô Xương Xí, tức Ngô Sứ Quân giữ Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa).[1]
  2. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội).
  3. Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động Giang (Quốc OaiThanh Oai, Hà Nội).
  4. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu (Hưng Yên).
  5. Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu (Phú Thọ).
  6. Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Phú Thọ).
  7. Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc).
  8. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội).
  9. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
  10. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh).
  11. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu (Thái Bình).
  12. Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên).

Theo Việt sử kỷ yếu: "Từ khi Dương Tam Kha chiếm vị xưng vương, lòng người không phục. Các thổ hào có quân đội hùng cứ mỗi người một phương, chiếm giữ quận ấp, xung đột tranh giành ảnh hưởng, tiêu diệt lẫn nhau. Một nước phân liệt chia thành nhiều giang sơn. Quốc sử chép là Thập nhị sứ quân. Con số 12 đây là không kể các tù trưởng miền rừng núi và mấy thố hào ít nổi tiếng".[2]

Có ý kiến cho rằng số sứ quân trên mang tính ước lượng cho phù hợp với con số 12 châu Tĩnh Hải quân vì theo các tài liệu lịch sử và thần tích còn lưu lại, một số nhân vật tương tự nhưng không được kê vào danh sách sứ quân trên. Điển hình như cuốn Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đảo (Trung Hoa) ghi:

Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Ngô Xương Văn chết, tham mưu của Văn là Ngô Xử Bình, cùng Phong Châu Thứ sử Kiều Tri Hựu, Vũ Ninh châu Thứ sử Dương Huy, Nha tướng Đỗ Cảnh Thạc, bọn ấy cùng tranh lập. Mười hai châu của Giao Chỉ đại loạn, trộm cướp cùng dấy.

Có thể trong số các nhân vật: Lã Xử Bình, Dương Huy,... hoặc không có thực ấp, không phải là thổ hào, thứ sử hoặc đã chết tại thời cực thịnh của 12 sứ quân.

Nguồn gốc xuất thân

Theo cuốn "Gốc và Nghĩa từ Việt thông dụng" của Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1998 thì từ "Sứ quân" được dịch là "Vua cai trị" (sứ: cai trị, quân: vua). Ở Trung Hoa, Sứ quân còn là cách gọi tôn xưng dành cho người nắm giữ chức đầu của một châu mục nào đó, tức Thứ sử (Theo định nghĩa của từ điển Từ nguyên).[3] Cách gọi này được dùng trong các văn bản từ đời Hán cho đến đời Thanh.

Trong các sứ quân trên:

Các sứ quân thường được mô tả thân hình dũng mãnh, khí phách anh hùng như: Phạm Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn; Đỗ Cảnh Thạc bị bọn cướp xẻo mất một bên tai, lòng căm thù sôi sục, quyết tìm thầy học võ; Nguyễn Thủ Tiệp mình dài tiếng to, ai nghe thấy tiếng nói cũng phải giật mình, người ta gọi là ông Sấm;[6]; Kiều Thuận khi sinh ra có ánh sáng lạ tràn ngập khắp ngôi nhà; Nguyễn Siêu chết trôi sông 3 tháng không nát, nước da vẫn tươi nguyên...

Bậc đế vương

Cuốn chính sử Việt Nam "Lịch triều hiến chương loại chí" trang trọng xếp 12 sứ quân vào danh sách dòng chính thống các bậc đế vương. Trong số các sứ quân cai trị ở vùng chiếm đóng, nhiều người đã xưng Vương hoặc được tôn xưng là Vương như:

  • Ngô Xương Xí, hiệu Ngô Sứ quân (吳使君), là hậu duệ nhà Ngô, từng làm Vương nhưng trong danh sách những vị Quân chủ Việt Nam thì ông không được thừa nhận.[7].
  • Nguyễn Thủ Tiệp, vốn xưng Lệnh Công (令公), sau xưng Vũ Ninh vương (武宁王), giống tên hiệu một vị vua thời Tam Quốc Triều Tiên.
  • Ngô Nhật Khánh, vốn xưng Lãm Công (覽公), sau xưng An vương (安王).[8]
  • Nguyễn Khoan, xưng làm Thái Bình (太平), sau xưng Quảng Trí quân (瀇智君), tức một vị Quân vương có đức lớn tài cao, rộng hiểu biết và đầy tình bác ái, biết canh tân mỹ tục..
  • Phạm Bạch Hổ, được người dân một số vùng tôn sùng như một vị Vương. Các đền thờ của ông ở Hưng YênNam Định đều được gọi là đền Vua Mây và có bức đại tự ở chính cung tôn vinh 4 chữ: "Thái Bình vương phủ" (太平王府).
  • Trần Lãm được người dân lập đền thờ ở nhiều nơi trong đó thành phố Thái Bình có di tích Miếu Vua Lãm.
  • Kiều Thuận, cũng được hậu thế tôn vinh như là một vị Vương. Trong ngôi đền Trù Mật, trên long ngai thờ Kiều Thuận có bốn chữ vàng "Quang Hiển quốc vương" (光顯國王).[9]
  • Kiều Công Hãn được gọi là Long Kiều vương (隆橋王), Đỗ Cảnh ThạcĐộc Nhĩ Đại vương (獨耳大王). Đây là 2 sứ quân trực tiếp giành ngôi Vương ở triều đình Cổ Loa khi Nam Tấn vương Ngô Xương Văn mất[10].

Tóm tắt sự nghiệp

TTSứ quânNơi đóng quânSự nghiệpGhi chú
1Trần Lãm
Trần Minh Công
Bố Hải Khẩu
Thái Bình
Trần Lãm (?-967) là người gốc Hoa, sau trở thành một sứ quân mạnh trấn giữ vùng cửa biển sông Hồng, có tiềm lực về kinh tế dựa vào lợi thế của nghề đánh cá biển.[11] Lực lượng của Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu có sự liên kết, phối hợp với Đinh Bộ Lĩnh. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất lực lượng Bố Hải Khẩu về Hoa Lư để đánh dẹp các sứ quân khác.
2Ngô Xương Xí
Ngô Sứ quân
Bình Kiều
Thanh Hóa
Ngô Xương Xí vốn là dòng dõi nhà Ngô. Khi Ngô Xương Văn mất, các tướng Lã Xử Bình, Kiều Tri Hựu, Đỗ Cảnh Thạc, Dương Huy tranh nhau làm vua. Ngô Xương Xí phải rời bỏ Kinh đô về chiếm vùng núi Bình Kiều, Thanh Hóa, trở thành một sứ quân. Ngô Sứ quân chiếm đóng và xây dựng thành Bình Kiều. Sau ông cùng với Phạm Bạch HổNgô Nhật Khánh hàng phục nhà Đinh.
3Đỗ Cảnh Thạc
Đỗ Cảnh Công
Đỗ Động Giang
Hà Nội
Đỗ Cảnh Thạc (912-967) vốn người gốc Trung Hoa. Ông từng là tướng nhà Ngô rồi Dương Tam Kha. Tham gia tranh ngôi vua khi Ngô Xương Văn mất. Đỗ Cảnh Thạc lập hành cung có cung thành chắc chắn và hào sâu bao quanh, gồm 72 trại sở, tu tạo thuyền chiến, tích trữ lương thảo, binh sĩ và trở thành một sứ quân rất mạnh ở vùng Đỗ Động Giang. Lực lượng của ông giao tranh hơn một năm với lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh rồi bị giết năm 967.
4Phạm Bạch Hổ
Phạm Phòng Át
Đằng Châu
Hưng Yên
Phạm Bạch Hổ (910 - 972) vốn là tướng nhà Ngô, trấn giữ Hải Đông (vùng Quảng Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên ngày nay). Khi nhà Ngô mất, ông trở thành một sứ quân mạnh, được tôn xưng là Vua Mây. Sau một số lần giao tranh, ông hàng phục nhà Đinh. Hiện được nhiều nơi ở vùng châu thổ sông Hồng lập đền thờ.
5Kiều Công Hãn
Kiều Tam Chế
Phong Châu
Phú Thọ
Kiều Công Hãn (?-967) vốn là tướng nhà Ngô. Giữ chức Thứ sử Phong Châu, từng tham gia tranh ngôi vua khi Ngô Xương Văn mất và trở thành một trong 12 sứ quân chiếm giữ 3 châu Hào, Thái, Phong. Kiều Tam Chế cho xây thành Tam Giang rồi thành Phù Lập ở Phong Châu và mở rộng căn cứ chiếm đóng. Năm 967 khi giao chiến với quân Hoa Lư, trên đường tháo chạy bị một hào trưởng là Nguyễn Tấn chặn đón chém chết ở khu vực đền Gin, Nam Định ngày nay.
6Nguyễn Khoan
Nguyễn Thái Bình
Quảng Trí Quân
Tam Đái
Vĩnh Phúc
Nguyễn Khoan (906 - 967) vốn là con của một vị tướng Trung Hoa, có công chiêu mộ và huấn luyện dân binh vùng chiếm đóng để xây dựng lực lượng và phát triển kinh tế. Nguyễn Khoan là sứ quân rất mạnh, được dân bản xứ tôn xưng là Quảng Trí Quân, cai trị triều đình nhỏ ở Tam Đái. Sau ông bị lực lượng Hoa Lư tấn công, chống không nổi và bị giết.
7Ngô Nhật Khánh
Ngô Lãm Công
An Vương
Đường Lâm
Hà Nội
Ngô Nhật Khánh (?-979) vốn là dòng dõi hoàng thân nhà Ngô. Sau cũng trở thành sứ quân mạnh chiếm đóng ở quê hương Đường Lâm. Khi Ngô Xương Xí nối ngôi, Ngô Nhật Khánh cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ Loa tranh giành[12], tự xưng An Vương. Giữ Đường Lâm, mở rộng địa bàn sang Cổ Loa và Đỗ Động Giang, Bố Hải Khẩu... Sau hàng phục nhà Đinh, trở thành phò mã. Khi vua Đinh mất, Nhật Khánh chạy sang Chiêm Thành đem quân tấn công Hoa Lư bị bão dìm chết năm 979 ở cửa Thần Phù.
8Nguyễn Siêu
Nguyễn Hữu Công
Tây Phù Liệt
Hà Nội
Nguyễn Siêu (924-967) cùng với 2 sứ quân khác là con của một vị tướng Trung Hoa. Khi giàu mạnh, Nguyễn Siêu nuôi dưỡng môn đệ trên 8.000 người, binh mã có trên 10 vạn, không ngừng thu phục anh hào, thế lực ngày càng lớn. Nguyễn Siêu trở thành một sứ quân rất mạnh có thành hào vững chắc. Lực lượng của ông bị đánh bại sau lần tấn công thứ hai của Đinh Bộ Lĩnh.
9Kiều Thuận
Kiều Lệnh Công
Hồi Hồ
Phú Thọ
Kiều Thuận (?-?) thuộc lực lượng của Kiều Công Tiễn. Gia tộc họ Kiều của ông vốn là một thế lực lớn ở Phong Châu. Ông xây dựng căn cứ Tam Thành, xây thành Hưng Hóa, mở rộng sự liên kết với các hào trưởng, tộc trưởng miền núi. Kiều Thuận trở thành một sứ quân mạnh, có địa bàn rộng lớn và vững chắc ở xa các sứ quân khác. Sau ông bị lực lượng Hoa Lư tấn công, chống không nổi và bị giết.
10Nguyễn Thủ Tiệp
Nguyễn Lệnh Công
Vũ Ninh Vương
Tiên Du
Bắc Ninh
Nguyễn Thủ Tiệp (908-967) là con của một vị tướng Trung Hoa. Ông kế thừa sự nghiệp của cha với nhiều của cải. Ông trở thành một sứ quân mạnh. Sau mở rộng thực ấp, lấy cả châu Vũ Ninh. Ông tự xưng là Vũ Ninh vương. Khi bị quân Hoa Lư tấn công ông tháo chạy về Cần Hải (Nghệ An) giao tranh vài trận rồi chết ở đó.
11Lý Khuê
Lý Lãng Công
Siêu Loại
Bắc Ninh
Lý Khuê (?-968) là một thổ hào địa phương, sau trở thành một sứ quân trong thời loạn 12 sứ quân. Ông vốn là một hào trưởng, chiếm đóng tại vùng Siêu Loại giáp ranh Bắc NinhHưng Yên ngày nay. Năm 968 ông bị tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan.
12Lã Đường
Lã Tá Công
Tế Giang
Hưng Yên
Lã Đường vốn là một thổ hào địa phương ở vùng Tế Giang. Khi nhà Ngô suy yếu, Lã Đường tự chiêu mộ và xây dựng lực lượng cát cứ, dựa vào địa thế hiểm yếu bùn lầy, lau sậy để cố thủ. Sau ông bị lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh tấn công, chống không nổi và bị giết.

Các căn cứ quân sự

Đỗ Động Giang

Thành Đỗ Động là trung tâm căn cứ chiếm đóng của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc. Thành còn gọi là thành Quèn hay trại Quyền thuộc xã Tuyết Nghĩa, huyện Quốc Oai, Hà Nội ngày nay. Theo vết tích còn lại, thành hình vuông mỗi cạnh 170m, cao từ 1m50 đến 2m, chân rộng 9,50m, bốn góc thành có 4 u đất, bên ngoài đắp lượn tròn. Ở giữa thành có khu đất cao hình chữ nhật mỗi bề 23m và 20m, được gọi là ruộng cột cờ. Thành nằm sâu bên bờ sông Con, còn gọi là sông Tích, tức sông Đỗ Động, bốn mặt đều có cửa. Dưới chân thành ở độ sâu từ 0,4 – 0,6m có một lớp di vật độ dày tới 1m bao gồm gạch ngói, ngói bản, ngói ống và những mảnh nồi, vò đất nung. Những di vật này cho biết nơi đây dưới thời Bắc thuộc đã từng là một lỵ sở huyện, trấn hoặc cũng có thể đã xây thành đắp lũy ở đây.

Một căn cứ quân sự của ông nữa cũng nằm cách trại Quèn khoảng 20 km theo đường chim bay là đồn Bảo Đà (nay thuộc thôn Bình Đà, xã Bình Minh, Thanh Oai, Hà Nội). Bình Đà nằm ở thượng nguồn nhánh sông Đỗ Động, suốt từ trại Quèn xuống đến Thiên Phúc, Bảo Đà thuộc Thanh Oai đều thuộc quyền Đỗ Cảnh Thạc cai quản. Sau khi thống nhất 12 sứ quân, thống nhất lãnh thổ lập lên nhà nước Đại Cồ Việt, khu vực Đỗ Động Giang thuộc về Đạo Quốc Oai, một trong 10 đạo, là các đơn vị hành chính Việt Nam dưới thời Đinh.

Tam Đái

Tam Đái, tức 3 giải đất quanh ngã ba Bạch Hạc,[13] Về quân sự, Nguyễn Khoan xây dựng thủ phủ trên gò Biện Sơn và đóng đồn ở gò Đồng Đậu, chiêu mộ và huấn luyện dân binh để xây dựng lực lượng quân sự dùng khi hữu sự[14] Nay có Đồng Đậu là một di chỉ cư trú của người Việt cổ lớn nhất ở trung tâm vùng tam giác châu thổ Bắc Bộ, phạm vi diện tích phân bố rộng nhất, tầng văn hoá dày nhất, chứa đựng khối lượng hiện vật khảo cổ rất lớn và phong phú.[15]

Sơn tây tỉnh chí chép về vùng đất Tam Đái: Một bên là núi Một tai, một bên là núi Biện, ở địa phận xã Vĩnh Mỗ, huyện Yên Lạc giữa đất bằng nổi lên đồi đất, hình như voi quỳ. Dưới có đầm sâu, Nguyễn Sứ quân chiếm Tam Đái, đóng đô ở đấy, vì thế có tên là Nguyễn Gia Loan. Loan giang - cùng với Bạch Hạc giang - Phó Đáy giang tạo nên Tam Đái - trở thành địa danh lịch sử từ thời Sứ quân, một “tiểu triều đình” tạo nên bởi ba dải sông, nên sự trù phú: “Nhất Tam Đái, nhì Khoái Châu”.

Bố Hải Khẩu

Bố Hải Khẩu xuất phát là vùng cảng biển, sau do phù sa các sông bồi tụ vùng "Kỳ Bố" chuyển thành vùng cảng sông của sông Hồng và sông Trà Lý và dần trở thành đất liền. Nơi đây là vùng đất có vị trí quan trọng về kinh tế và quân sự, giao thông thủy bộ thuận lợi, đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà.[16] Lịch sử truyền thống của vùng đất thành phố Thái Bình, nơi được đặt làm trung tâm tỉnh lỵ tỉnh Thái Bình ngày nay gắn liền với địa danh Bố Hải Khẩu xưa với sự kiện vị thủ lĩnh Trần Lãm chọn nơi đây để xây thành đắp lũy, lập đại bản doanh và trở thành sứ quân mạnh nhất trong thời loạn 12 sứ quân ở thế kỷ X.

60 năm sau sự kiện Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, Bố Hải Khẩu lại được ghi vào sử sách khi nhà Lý mở mang chính sách khuyến nông, năm Mậu Dần (1038) vua Lý Thái Tông đã về Bố Hải Khẩu cày ruộng tịch điền.[17]

Không có tài liệu để xác định rõ ranh giới kiểm soát, quản lý của sứ quân Trần Lãm. Nhiều ý kiến cho rằng vào thế kỷ X, Bố Hải Khẩu là trung tâm của vùng đất phía nam sông Luộc, gồm cả vùng đất 2 tỉnh ven biển là Thái BìnhNam Định ngày nay.[18]

Dấu tích địa danh Kỳ Bố Hải Khẩu nay thuộc kẻ Bo - làng cổ ở thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, vốn được lập trên vùng cửa sông gọi là Bố Hải khẩu, tức cửa biển Bo cách ngày nay hơn nghìn năm. Làng có giống ổi Bo to ngon nổi tiếng. Cầu bắc qua sông cũng gọi là cầu Bo. Di chỉ của thành Kỳ Bố Hải Khẩu thời kỳ Trần Lãm hiện vẫn còn ở thành phố Thái Bình.[19]

Tây Phù Liệt;

Nguyễn Siêu đóng quân trên địa bàn Tây Phù Liệt, nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội. Tổng số có 100.000 binh mã trong đó 8000 quân tinh nhuệ, địa bàn cát cứ có giới hạn trong khoảng từ 30 – 40 km. Thời kỳ các sứ quân cát cứ từng vùng để tiến lên giành quyền cai trị Tĩnh Hải quân, Nguyễn Siêu đã tiến hành xây dựng thành lũy kiên cố. Những thần tích còn để lại cho biết tuyến lũy của Nguyễn Siêu có chiều 10 km kéo dài từ làng Việt Yên qua Ngọc Hồi. Lũy được cấu tạo bằng cọc rặng tre gai đã có sẵn, bao quanh các thôn xóm, được trồng thành nhiều lớp, bên ngoài là cánh đồng nước hoặc đầm lầy. Chân cọc rào tre được đắp đất dày và vững chắc. Mãi đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thì rặng tre và lũy đất vẫn là những công trình kiến trúc quân sự rất có giá trị.

Tại trung tâm căn cứ, nơi đặt đại bản doanh của Nguyễn Siêu vùng gò đồi tập trung mà hiện nay còn thấy rải rác tại các cánh đồng làng Đông Phù Liệt. Các mô Ma Cả, Ma Treo, Đường Chộ, Tam Thai… được đắp đất để cao thêm, nối liền tạo thành bức tường thành bọc lấy cánh đồng Dinh là vết tích còn để lại. Hiện nay người Việt chỉ có thể thấy một cách phác lại diện mạo căn cứ này để hiểu thêm về nghệ thuật quân sự ở thế kỷ X của các bậc tiền nhân. Đông Phù Liệt hay Nam Phù Liệt hiện nay gồm các xã: Đông Mỹ, Vạn Phúc của huyện Thanh Trì và Duyên Thái của huyện Thường Tín còn Tây Phù Liệt gồm các xã: Tứ Hiệp, Ngũ Hiệp và phần lớn xã Liên Ninh.[20]

Hồi Hồ

Thành cổ Hồi Hồ thuộc làng Hoa Khê, còn có tên là Cẩm Khê, nay là làng Văn Khúc, xã Văn Khúc thuộc huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Nơi đây cách thị trấn Sông Thao, Cẩm Khê 10 km, cách thành phố Việt Trì 40 km. Địa danh Hồi Hồ hiện còn có vết tích thành đất cũ của sứ quân Kiều Thuận. Đây là căn cứ quân sự thuộc vùng núi hiểm trở và cách xa kinh đô Hoa Lư thời nhà Đinh nhất trong số các căn cứ của 12 sứ quân.

Huyện Hoa Khê, theo các sách địa lý cổ, trước là Hồi Hồ. Các sử thần đời Lê chú thích: "nay ở xã Trần Xá, huyện Hoa Khê vẫn còn nền thành cũ" [21]. Đến đầu thế kỷ XV, quân Minh xâm lược Đại Việt, huyện Hồi Hồ gọi là huyện Hoa Khê. Thành Phượng Dực do Kiều Thuận gây dựng bây giờ vẫn còn dấu vết, nay thuộc xóm Quang Trung xã Văn Khúc, huyện Cẩm Khê.[22] Sách "Viêm giao trung cổ ký" (Ghi chép sưu tập di tích cổ nước Nam) của Cao Xuân Dục, trang 148 có chép: Phế thành Kiều Công ở xã Trương Xá, huyện Cẩm Khê, thành do sứ quân Kiều Thuận đắp lên, di chỉ hiện vẫn còn.

Siêu Loại

Căn cứ vào thần tích và di vật còn ở Siêu Loại, Lý Khuê từng cho sửa lại thành Luy Lâu làm đại bản doanh. Nhưng thực chất chỉ là cái bẫy cho đối phương. Sự thật, ông đã bí mật cho đại quân kéo về ấp Cồi, nay thuộc làng Thư Đôi, xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành xây dựng căn cứ chính.[23] Tại đây, Lý Khuê đã cho xây dựng ấp thành căn cứ quân sự: Đào ao toàn bộ xung quanh ấp, đắp lũy cao, rồi trồng tre gai thật dầy. Cả ấp chỉ để hai cổng ra vào. Riêng cổng ở Ngõ Dưới hướng lên phía bắc, ông cho xây dựng rất kiên cố. Bên ngoài cổng cho đắp một cái bãi hình mũi mác chĩa ra đường cái, gọi là Bãi Mác. Cạnh đấy, ông còn cho xây một đồn canh có hình thù rất kỳ dị và độc đáo: Đồn nửa chìm nửa nổi, phần nổi có hình như một cái bụng người nên gọi là Đồn Bụng. Riêng Đồn Bụng sau này đã bị quân Minh tàn phá nên đổi tên gọi là Vườn Bụng ở giữa ngõ Ngoài và ngõ Giữa. Còn bên trong cho đắp những gò đống để khi bí thế thì rút quân vào đấy. Chỗ này gọi là Tầm Bùi. Ông còn cho đào một cái ao khá lớn, xung quanh cũng trồng tre gai dày đặc, dưới ao cũng thả rau muống, rau ngổ cho lên cao tốt. Ở giữa ao cho đắp một cái gò khá rộng để họp bộ chỉ huy. Chỗ này gọi là Vườn Phủ.

Những ghi chép cho thấy, địa bàn hoạt động của sứ quân Lý Khuê nằm ở bờ nam sông Đuống thuộc tỉnh Bắc Ninh và một phần nhỏ ở Gia Lâm, Hà Nội ngày nay. Ông không xâm chiếm lãnh địa của các sứ quân khác mà hành động theo kế "Tọa sơn quan hổ đấu", tức là ngồi trên núi xem hổ đánh nhau chứ chưa thực sự nổi dậy, tranh hùng và mở rộng lãnh thổ.

Bình Kiều

Thành Bình Kiều là một tòa thành do chính Sứ quân Ngô Xương Xí xây dựng trên vùng đất mới chọn sau khi phải dời khỏi triều đình Cổ Loa. Thành nằm lọt vào giữa vùng đất cách thành phố Thanh Hóa 25 km về phía Đông, cạnh dãy Cửu Noãn Sơn, liền kề phía Bắc núi Nưa thuộc huyện Như Thanh. Vùng đất này ngày nay thuộc về các xã Hợp Lý, Hợp Tiến, Hợp Thành thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bình Kiều có nghĩa là cầu bằng (tức cầu không cong), nguyên là tên một cây cầu bắc qua sông Mau Giếng.

Theo tài liệu của Giáo sư Phan Đại Doãn công bố vào năm 1971 và kết quả khảo sát thực địa tiến hành vào năm 1981 thì tòa thành này đắp bằng đất, được xây dựng trên một khu đất vuông vắn, thành có hình vuông, mỗi bề gần 1.800 m. Nay đã trở thành bờ vùng, bờ thửa và lũy tre. Chung quanh thành có vết hào bao bọc, thành cao khoảng 2 m, chân thành rộng từ 3 – 4 m, mặt thành rộng khoảng 2 m. Thành có 4 cửa và bồn góc thành có 4 cồn đất cao. Tòa thành nằm cạnh con sông Mau Giếng, một nhánh của sông Nhơm – thượng nguồn của sông Cầu Quan, đổ vào sông Yên để ra biển qua cửa Ghép. Tên gọi Bình Kiều xuất phát từ một chiếc cầu: cầu Bừng bắc qua sông Mau Giếng ở gần phía Bắc tòa thành.

Phong Châu

Phong Châu thuộc Việt Trì, Phú Thọ vốn là đô cũ thời Hùng Vương. Thế kỷ X, Phong Châu trở thành trung tâm quyền lực của họ Kiều. Lần lượt Kiều Công Tiễn rồi cháu nội là Kiều Công Hãn trở thành thứ sử Phong Châu.

Tế Giang

Theo cuốn sách Miền quê Văn Giang của tác giả Trần Khắc Cần – Nhà xuất bản Văn Hoá Dân tộc - 2004: Khi giải thích về nguồn gốc huyện Văn Giang thì Tế Giang là tên một con sông. Sông Tế Giang lớn. Khi nước triều lên, càng rộng, nối sông Hồng với sông Thương, Sông Cầu, là đường vận tải thủy chở các sản vật miền xuôi lên vùng núi Bắc Giang, Thái Nguyên và ngược lại. Vào thế kỷ X, nơi đây là vùng đất bùn lầy, quanh co, địa thế hiểm yếu. Khi nhà Ngô suy yếu, không còn khả năng kiểm soát địa phương, Lữ Đường tự chiêu mộ và xây dựng lực lượng cát cứ, dựa vào địa thế hiểm yếu để cố thủ, chờ thời cơ nổi dậy.

Tiên Du

Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, chiếm giữ Tiên Du. Tại đây, ông trở thành một sứ quân quyền lực với nhiều tài sản, có trang trại lớn gọi là Nguyễn Xá Trang. Theo một số ghi chép thì Nguyễn Thủ Tiệp đã về vùng núi Bát Vạn đắp thành lập lũy tạo thành căn cứ quân sự của mình. Thành cổ núi Bát Vạn hiện vẫn còn dấu tích ở xã Phật Tích, huyện Tiên Du với nhiều giai thoại về cuộc đời và sự nghiệp của sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp. Sau khi mở rộng địa bàn, Nguyễn Thủ Tiệp xưng là Vũ Ninh Vương vẫn đóng đô ở đây.

Đường Lâm

Ngô Nhật Khánh là một trong 12 sứ quân, đóng tại quê hương nhà Ngô, tức Đường Lâm, tự xưng là Ngô Lãm Công. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào hành trạng của ông mà suy đoán ông được Ngô Quyền giao trấn thủ đất hương hỏa, sau không phục Dương Tam Kha mà chiếm đóng và củng cố lực lượng để trở thành sứ quân. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì thôn Đường (cùng thôn Nguyễn, lực lượng khiến Ngô Xương Văn tử trận), tức Đường Lâm thuộc phạm vi chiếm đóng của sứ quân Ngô Nhật Khánh, còn thôn Nguyễn Gia Loan thuộc căn cứ của sứ quân Nguyễn Thái Bình, tức Nguyễn Khoan.[24]

Đằng Châu

Địa danh Đằng Châu có từ thời Bắc Thuộc. Năm 1005, Nhà Tiền Lê đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình. Vùng đất thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay. Đằng Châu vốn là một căn cứ quân sự, nơi đóng quân của tướng Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ quân. Hiện nay chỉ còn địa danh làng Đằng Châu, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên.

Các thổ hào khác

Các thế lực khác mặc dù bản chất cũng là các sứ quân (là hào trưởng, có thực ấp và quân lính) nhưng do theo về với Đinh Bộ Lĩnh nên không được nhắc tới trong chính sử như sau:

TTThổ hàoNơi đóng quânSự nghiệpGhi chú
1Nguyễn TấnTrại Âu Hóa
Nam Định
An Lá xưa vốn là vùng đất hoang hóa, người dân ở trại Âu Hóa (nay là vùng Xích Thổ, Ninh Bình) theo Nguyễn Tấn về đây lập ấp nên cũng đặt tên là trại Âu Hóa. Năm 966, đất nước xảy ra loạn 12 sứ quân, Nguyễn Tấn đứng ra chiêu dân, luyện tập võ nghệ. Năm 967, sứ quân Kiều Công Hãn bại trận từ Phong Châu chạy qua vùng Âu Hóa thì bị Nguyễn Tấn đem quân ra đánh, chém vào cổ, bỏ chạy đến làng Din thì chết. Từ đây, Nguyễn Tấn hết lòng giúp sức cho Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
2Phạm Đông NgaLàng Mậu Hòa
Hoài Đức
Hà Nội
Ông có công tập hợp dân chúng khởi dựng làng Mậu Hòa do đó mà dân làng lập đền thờ ông tại đền Mậu Hòa nằm ven bờ đê sông Đáy, thuộc xã Minh Khai, huyện Hoài Đức - Hà Nội. Khi có loạn 12 sứ quân ông đã đem quân theo Đinh Bộ Lĩnh và trở thành tướng tài, được phong Tổng đốc đại vương.
3Phạm Hán,
Phạm Phổ
Mai Khu
Hà Nam
Hai anh em Phạm Hán và Phạm Phổ gặp lúc có loạn 12 sứ quân, bèn kết giao hào kiệt bốn phương, chiêu mộ trai tráng thiết lập đồn lũy trên đất Mai Khu và đánh nhau với sứ quân Phạm Phòng Át và Ngô Nam vài mươi trận; hai ông giữ phần thắng, thanh thế vang dậy. Sau Phạm Hán được phong An định công, Phạm Phổ được phong Thống lĩnh công, được ân lộc nghìn hộ.
4Phạm Hạp
Phạm Cự Lượng
Trà Hương
Hải Dương
Hai anh em ông thuộc thế lực hào trưởng họ Phạm ở Trà Hương. Phạm Hạp cùng với em trai Phạm Cự Lượng đã tập hợp hơn 2000 người, ngựa từ quê đến Hoa Lư phò Đinh Bộ Lĩnh tham gia dẹp loạn 12 sứ quân. Theo thần tích đình Hướng Nghĩa, xã Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định thì Phạm Hạp chính là người đánh bại và chém chết sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái. Sau ông làm quan nhà Đinh. Khi Vua Đinh mất, lo sợ Lê Hoàn cướp ngôi Vua, ông cùng các quan đại thần nổi dậy chống cự và bị Lê Hoàn giết. Hai anh em ông được liệt vào danh sách "Giao châu thất hùng",tức 7 anh hùng Giao Châu thời bấy giờ.
5Nguyễn Phúc ThờiTrại Khả Khu
Thái Bình
Gặp thời 12 sứ quân, Nguyễn Phúc đã chiêu binh, xây dựng lực lượng, sắm sửa vũ khí thành lập một căn cứ riêng ở Khả Khu, xung quanh làng đào hào đắp luỹ, lập lên bốn điếm canh giữ bốn góc làng. Từ đó Nguyễn Phúc có đủ điều kiện, uy quyền để cát cứ một vùng riêng, một giang san riêng giữa vùng đất Đằng Châu (tỉnh Thái Bình). Sau ông hàng phục Đinh Bộ Lĩnh, được phong làm quan.[25]
6Lê LươngÁi Châu
Thanh Hóa
Lê Lương là một hào trưởng Ái Châu thời 12 sứ quân. Sau Đinh Tiên Hoàng lên ngôi phong hào trưởng Lê Lương, cai quản cả một vùng đất nằm trong phạm vi "đông đến Phân Dịch, nam đến Vũ Long, tây đến đỉnh núi MaLa, bắc đến lèn Kim Cốc" (gồm ba huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa, Quảng Xương - Thanh Hóa ngày nay) và cho con cháu Lê Lương đời đời được làm quan coi đất ấy.[26]
7Lê Chương,
Lê Du
Làng Kho
Nho Quan
Ninh Bình
Khi có loạn 12 sứ quân, Lê Chương và em trai Lê Du cùng tập hợp 2000 quân sĩ chia quân đóng 2 đồn. Đồn Thượng phía Đông do Lê Du chỉ huy, tự xưng là Thanh Y đại tướng quân. Đồn Hạ phía Tây do Lê Chương chỉ huy, tự xưng là Hiển Quang đại tướng quân. Sau 2 ông theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp các sứ quân và được giao cai quản vị trí cũ.
8Đinh NgaKim Bảng
Hà Nam
Đinh Nga tập hợp trai tráng quanh vùng với những người tài giỏi như Đinh Thiết, Đinh Ngân, Phạm Đức, Trần Huy, Đinh Mỹ. Họ đã giúp ông huấn luyện binh sĩ, xây dựng căn cứ. Đinh Nga sau theo về ủng hộ Đinh Bộ Lĩnh, ông từng đem quân đến giải vây cho Đinh Bộ Lĩnh và thừa thắng tấn công tiêu diệt Đỗ Cảnh Thạc tại Đỗ Động Giang. Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua đã ban thưởng cho Đinh Nga chức Tướng quân Chỉ huy sứ và cử về trấn trị tại địa bàn cũ, được hưởng lộc ấp ở huyện Cổ Bảng.[27]
9Đào Ngọc SâmGia Lộc
Hải Dương
Đào Ngọc Sâm sau khi rời quê hương đến vùng Hải Dương đã chiêu mộ dân binh được hơn 2000 người luyện tập binh pháp, sau có công giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp 2 sứ quân nhà Ngô và giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống.[28]
10Cao Điền Công,
Cao Đỗ Công
Gia Lâm
Hà Nội
Cao Điền Công và em trai Cao Đỗ Công là những nhân vật lịch sử dưới thời 12 sứ quân. Đỗ Công và Điền Công đã lập doanh cư thực ấp tại Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội ngày nay. Sau 2 ông hàng phục nhà Đinh và tiếp tục đánh dẹp các sứ quân khác.[29]
11Bạch Tượng,
Bạch Địa
Ứng Hòa
Hà Nội
Bạch Tượng cùng Bạch Địa là con trai gia đình tộc trưởng Bạch Lân ở Hoan Châu. Khi đất nước lâm vào cảnh 12 sứ quân cát cứ. Hai anh em Bạch Tượng và con bà dì là Đô Đài bèn đến phủ Ứng Thiên tụ tập dân chúng lập nên trang Nguyễn Xá sau ông theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp sứ quân ở Sơn Tây và trở thành tướng nhà Đinh, được Vua Đinh Tiên Hoàng tiếp tục ban thực ấp ở Động Phí ngày nay.[30]
12Đặng Sỹ Nghị,
Đặng Sỹ Phan,
Đặng Sỹ Lẫm
Kim Thành - Hải DươngĐặng Sỹ Nghị là người văn võ tinh thông, khi Đinh Bộ Lĩnh tuyển quân đánh dẹp loạn 12 sứ quân, ông chiêu mộ binh lính, gia thần, sỹ tử được hơn 6.000 người dẫn đến ứng tuyển và được Đinh Bộ Lĩnh phong làm " Đặng Sỹ thống lãnh đại tướng quân"; Khi lên ngôi Đinh Tiên Hoàng Đế phong ông làm "Lễ Bộ Tả thị lang" rồi trấn thủ Hoan Châu. Đền Phú Mỹ Xuân Hoa thuộc thôn Phú Nội, xã Bình Dân thờ Đặng Sỹ Nghị cùng với 2 thuộc tướng của ông là Đặng Sỹ Phan và Đặng Sỹ Lẫm.[31]
13Võ TrungKim Động - Hưng YênVõ Trung chiêu mộ được 10.000 quân tinh nhuệ ở Hưng Yên, sau ông đưa toàn bộ quân binh gia nhập lực lượng Hoa Lư giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Võ Trung đã giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quân Lã Xử Bình, Ngô Xương Xí. Đinh Tiên Hoàng phong Võ Trung lần lượt giữ chức Tham nghị triều chính, Binh bộ thượng thư, đốc trấn châu Hoan, tổng trấn Hải Dương.[32]

Dấu tích

Các sứ quân chiếm đóng các vùng và lập căn cứ, xây thành lũy. Một vài thành lũy trong số đó còn tồn tại lâu dài về sau, thậm chí được sử dụng lại. Chẳng hạn như thành Đỗ Động của Đỗ Cảnh Thạc tại Thanh Oai sau này được quân Minh sử dụng trong cuộc chiến chống phong trào khởi nghĩa Lam Sơn vào cuối năm 1426[33]. Thành Tam Giang của Kiều Công Hãn sau được nhà Trần sử dụng làm căn cứ quân sự. Các tòa thành như thành Hồi Hồ, thành Bình Kiều hiện vẫn còn dấu tích.

Hiện nay, ở Nam Định, Thanh Hoá, Hà Nội... có rất nhiều di tích thờ Đinh Tiên Hoàng, các tướng lĩnh và cả các sứ quân. Trong số các vị tướng thời Đinh có rất nhiều vị đến đây từ các vùng đất khác nhau. Những dấu tích cho thấy ở đây chính là vùng chịu sự ảnh hưởng và địa bàn gây dựng lực lượng của nhiều sứ quân hay các vị "hùng trưởng" khác như Phạm Bạch Hổ, Kiều Công Hãn, Lã Đường, Ngô Nhật Khánh, Nguyễn Khoan, Trần Lãm... dần dần trở thành nơi hội tụ và đối đầu quyết liệt của hào kiệt bốn phương.[34]

Trong danh sách thống kê có 280 danh nhân thời Đinh trong đó quê hương các tướng phân bố như sau: Ninh Bình 42 tướng, Hà Nội 49 tướng, Thái Bình 27 tướng, Hải Dương 27 tướng, Hà Nam 23 tướng, Thanh Hóa 22 tướng, Nam Định 21 tướng, Hưng Yên 20 tướng, Bắc Ninh 16 tướng, Hải Phòng 8 tướng, Bắc Giang 8 tướng, Phú Thọ 5 tướng, Trung Hoa 5 tướng, Nghệ An 4 tướng, Vĩnh Phúc 2 tướng, Cao Bằng 2 tướng, Hà Tĩnh 1 tướng.

Trong danh sách thống kê các di tích về thời Đinh, hiện có 500 di tích liên quan tới Vua Đinh và 280 danh nhân thời Đinh trong đó Hà Nội: 100 di tích, Nam Định 36 di tích, Ninh Bình gần 150 di tích, Thái Bình 46 di tích, Hưng Yên 29 di tích, Hải Dương 30 di tích, Hà Nam 28 di tích, Hải Phòng 8 di tích, Bắc Ninh 10 di tích, Nghệ An 13 di tích, Thanh Hóa 10 di tích, Phú Thọ 8 di tích, Bắc Giang 5 di tích, Vĩnh Phúc 6 di tích, Thái Nguyên 4 di tích. Các tỉnh khác cũng có di tích thời Đinh như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, An Giang, Hòa Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Tĩnh...

Nhiều di tích thờ các bộ tướng và sứ quân trở thành điểm đến nổi tiếng của các địa phương như: Di tích lịch sử cấp Quốc gia: Đình Làng Phú KhêHoằng Phú huyện Hoằng Hoá tỉnh Thanh Hoá; đình Bến ở Văn Giang và đền Mây ở thành phố Hưng Yên; đền Trù Mật ở thành phố Phú Thọ; đền Gin và đền Xám ở Nam Trực, Nam Định; đền Gia Loan ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc; đình Đông Phù ở Thanh Trì, đình Yên Bình ở Gia Lâm, đình Cổ Hiềnđền Tam Xã ở Quốc Oai, Hà Nội; đình Ném Đoài ở thành phố Bắc Ninh; đình Bo ở thành phố Thái Bình, đền Khai Long ở Đô Lương, Nghệ An...

Xét trên lợi ích quốc gia, việc cát cứ của các sứ quân đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc. Nhưng có thể thấy trong bối cảnh đất nước rơi vào tình trạng vô chủ, việc các vị hào trưởng có thế lực quân sự mạnh, thiết lập chính quyền, duy trì trật tự tại địa phương để nhân dân có thể sống yên bình trong vùng đất của họ là điều cần thiết và thuận lòng dân, dù việc này không có tính toàn cục và chỉ diễn ra trong một thời đoạn ngắn, điều đó lý giải vì sao các sứ quân vẫn được nhân dân trong vùng chiếm đóng lập đền thờ cho dù số đền thờ này là quá ít ỏi so với số lượng đền thờ các trung thần nhà Đinh có công dẹp loạn. Sách "Việt Nam phong sử" bình rằng:

"Nói đến việc tranh nhau thì mười hai sứ quân chẳng tránh khỏi tội; nói về cuộc thống nhất thì mười hai sứ quân lại là có công vì lẽ nó tạo cơ hội cho Đinh Tiên Hoàng thống nhất được quốc gia mà không bị kẻ ngoài cướp đoạt,... người Nam làm vua nước Nam, chắc hẳn 12 Sứ quân có linh thiêng cũng ngậm cười ở nơi chín suối…"

Chiến tranh kết thúc năm 968. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Đinh Tiên Hoàng, lập ra triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập trong nhân dân.

Tham khảo

Liên kết ngoài