Bếp Hoàng Cầm

loại bếp dã chiến được dùng trong chiến dịch Điện Biên Phủ

Bếp Hoàng Cầm ra đời từ chiến dịch Hòa Bình (1951 – 1952) và rất phổ biến trong chiến dịch Điện Biên Phủ.[1] Đây là một loại bếp dã chiến, có công dụng làm tan loãng khói bếp tỏa ra khi nấu ăn nhằm tránh bị máy bay phát hiện từ trên cao, cũng như ở gần. Bếp mang tên người chế tạo ra nó, anh hùng nuôi quân Hoàng Cầm (1916 – 1996).[2] Ông nguyên là tiểu đội trưởng nuôi quân của Đội trưởng Đội điều trị 8, Sư đoàn 308 Quân đội Nhân dân Việt Nam.[1]

Phục dựng bếp Hoàng Cầm ở Chiến khu D

Với những ưu thế nên bếp Hoàng Cầm đã trở nên phổ biến trong các đơn vị trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và những năm Chiến tranh Việt Nam sau này.[1][3] Địa đạo Củ Chi hiện nay vẫn còn công trình hầm bếp Hoàng Cầm.[4][5][6]

Tiểu sử anh nuôi Hoàng Cầm

Hoàng Cầm sinh năm 1916 ở xã Trực Đại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Vì nghèo khó, ông bỏ nhà lên phố mưu sinh năm 20 tuổi. Sau năm 1936, ông học nghề đầu bếp và làm thuê cho cửa hàng cơm Văn Phú ở phố Hàng Lọng (đường Lê Duẩn ngày nay).[3]

Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia tự vệ thành. Năm 1947, ông được giao nhiệm vụ phụ trách cấp dưỡng của An Dưỡng đường thuộc Quân y vụ khu Trung ương (Cục Quân y). Cuối năm 1948, ông được điều về phụ trách cấp dưỡng tại Quân y viện ở Mỹ Tranh.[3]

Thu đông năm 1949, trong Chiến dịch Biên giới, ông phụ trách một tổ cấp dưỡng tại một trạm vận chuyển thương binh ở Na Lang.[3]

Trong Chiến dịch Hoàng Hoa Thám 1951, do có công giúp đơn vị “luôn đủ thực phẩm tươi sống mà giá cả lại phải chăng, đời sống thương bệnh binh ngày càng được cải thiện”…ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba.[3]

Đông xuân 1951 – 1952, trong Chiến dịch Hòa Bình, vì phải theo sát cuộc chiến đấu của Sư đoàn 308, bộ phận phục vụ của Hoàng Cầm phải chia làm 2 tổ, bình quân mỗi người phải phục vụ 60 người. Giai đoạn này ông đã chế tạo bếp Hoàng Cầm.[3]

Bếp Hoàng Cầm do ông chế tạo đã được nhanh chóng phổ biến và sử dụng rộng rãi trong Quân đội Nhân dân Việt Nam thời kỳ Chiến tranh Đông DươngChiến tranh Việt Nam. Với thành tích trên, cha đẻ của bếp Hoàng Cầm đã được bầu là Chiến sĩ thi đua sư đoàn, được thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì.[3]

Sau Chiến tranh Đông Dương, ông nhận huy hiệu chiến sĩ Điện Biên và Huân chương Chiến thắng hạng Ba. Năm 1958, Hoàng Cầm ra quân. Ông tiếp tục công tác tại thị trấn Tam Đảo. Kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam, ông được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Hai.[3]

Cấu tạo của bếp

Bếp có nhiều đường rãnh để thoát khói, nối liền với lò bếp, bên trên rãnh đặt những cành cây và phủ một lớp đất mỏng được tưới nước để giữ độ ẩm. Khói từ trong lò bếp bốc lên qua các đường rãnh chỉ còn là một dải hơi nước tan nhanh khi rời khỏi mặt đất.[7] Do đó, bếp Hoàng Cầm nấu được cả ban ngày lẫn ban đêm mà không sợ lộ khói lửa, theo tinh thần “đi không dấu, nấu không khói…”.[3]

Bếp Hoàng Cầm trong văn thơ

Hình ảnh bếp Hoàng Cầm đã xuất hiện trong thơ ca kháng chiến, mà nổi tiếng nhất là trong thơ Phạm Tiến Duật. Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính nói về bộ đội những năm tháng chống Mỹ, Phạm Tiến Duật có viết:[8]

"Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy..." "Bếp Hoàng Cầm ta sưởi ấm khắp nơi nơi..." (Nổi lửa lên em)

Tham khảo