Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (tiếng Anh: International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt: ICCPR) là một công ước quốc tế do Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 3 năm 1976, nêu tổng quan các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người. Cụ thể, các bên tham gia ký kết sẽ phải tôn trọng các quyền dân sự và chính trị của từng cá nhân, bao gồm quyền sống, quyền tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do hội họp, quyền bầu cử và quyền được xét xử bình đẳng và theo đúng trình tự pháp luật. Tính tới ngày 19 tháng 12 năm 2010, đã có 72 nước ký vào Công ước và 167 bên tham gia.[1] Trung Quốc, Cuba, Comoros, Nauru, và São Tomé và Príncipe đã ký nhưng chưa thông qua công ước.

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị
International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR)
{{{image_alt}}}
Các quốc gia tham gia ICCPR:
  đã ký và thông qua
  đã ký nhưng không thông qua
  đã ký, phê chuẩn nhưng đã tuyên bố muốn rời khỏi giao ước
  không ký cũng không thông qua
Loại hiệp ướcNghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
Ngày thảo1954
Ngày kí16 tháng 12 năm 1966
Nơi kíTrụ sở Liên Hợp Quốc, New York
Ngày đưa vào hiệu lực23 tháng 3 năm 1976
Bên kí72
Bên tham gia166
Người gửi lưu giữTổng thư ký Liên Hợp Quốc
Ngôn ngữTiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha

Công ước là một phần của hệ thống Luật Nhân quyền quốc tế, cùng với Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóaTuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền[2] được đặt dưới sự giám sát riêng của Ủy ban Nhân quyền, độc lập với Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Cơ quan này có trách nhiệm giám sát việc thực hiện và thẩm định các báo cáo nhân quyền của các nước. Mới đầu, các bên tham gia phải báo cáo định kỳ mỗi năm một lần, nhưng sau đó là bất kỳ khi nào Ủy ban giám sát yêu cầu (thông thường là bốn năm một lần). Ủy ban này họp trụ sở tại Genève hoặc New York và thường có ba kỳ họp mỗi năm.

Nguồn gốc tên gọi

Tên gọi Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị bắt nguồn từ quá trình soạn thảo trùng với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Một bản "Tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người" đã được đưa ra tại hội nghị thành lập Liên Hợp Quốc năm 1945, tức Hội nghị San Francisco. Sau đó, Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc được giao trách nhiệm soạn thảo và hoàn thiện nó.[2] Mới đầu trong quá trình soạn thảo, bản thảo được chia nhỏ thành một tuyên ngôn về các quyền con người tổng quát và một bộ quy tắc ràng buộc các bên tham gia ký. Cái đầu tiên sau này trở thành Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và được thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948.[2]

Bộ các quy tắc được tiếp tục soạn thảo, nhưng lại nảy sinh nhiều bất đồng giữa các thành viên Liên Hợp Quốc về sự tương quan mức độ quan trọng của các quyền dân sự và chính trị đối với các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.[3], dẫn đến việc bộ quy tắc bị phân ra thành hai bộ nhỏ, "một cái chứa các quyền dân sự và chính trị, và cái kia chứa các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa".[4] Hai bộ nhỏ này, gọi là hai công ước, tiếp tục được hoàn thiện tới mức bao quát và đầy đủ nhất có thể, và sau đó được đưa ra cho các thành viên ký cùng lúc.[4] Mỗi Công ước đều chứa một điều khoản quy định quyền tự quyết của mọi dân tộc.[5]

Như vậy, Bộ quy tắc thứ nhất trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, trong khi cái thứ hai trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Cả hai bản thảo công ước được đưa ra thảo luận tại cuộc họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1954, và được chấp thuận vào năm 1966.[6]

Tóm tắt nội dung

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị gồm 6 phần, 53 điều có hiệu lực ngày 23 tháng 3 năm 1976. Lời mở đầu khẳng định chân lý bất di bất dịch rằng việc công nhận những phẩm giá vốn có và quyền bình đẳng của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Do đó, về các quyền dân sự và chính trị, Công ước quy định:

Phần I (Điều 1) công nhận quyền tự quyết của mọi dân tộc, bao gồm quyền được "tự do định đoạt thể chế chính trị và theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá" trong điều kiện thực tế của mình.[7] Công nhận rằng quyền sinh kế của một dân tộc không bao giờ bị tước bỏ. Để đạt được mục tiêu này, các dân tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của mình, miễn là không vi phạm những nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi hỗ tương và luật pháp quốc tế.[8] Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này, kể cả những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu theo các điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc.[9]

Phần II (Điều 2–5) yêu cầu các bên thực hiện các bước cần thiết để hiện thực hóa các quyền được công nhận trong Công ước, đồng thời trừng phạt và sửa chữa bất kỳ vi phạm nào trong quá khứ và hiện tại.[10] Nó yêu cầu các bên cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi những quyền được thừa nhận trong Công Ước cho "tất cả mọi người sống trong lãnh thổ và thuộc thẩm quyền quốc gia, không phân biệt chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác."[11] và nhấn mạnh nam nữ được hưởng các quyền về dân sự và chính trị nêu trong Công ước một cách bình đẳng.[12] Những quyền này "chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp khẩn cấp đe dọa đến sự tồn vong của một quốc gia,"[13], và ngay cả trong trường hợp đó cũng không tha thứ bất kỳ hành vi nào xâm phạm các quyền được sống, quyền không bị tra tấn và bị bắt làm nô lệ, quyền miễn trừ hồi tố, quyền được giữ nguyên chính kiến, quyền tự do tư tưởng - lương tâm và tôn giáo.[14]

Phần III (Điều 6–27) liệt kê các quyền được Công ước bảo hộ, bao gồm các quyền sau:

  • Quyền toàn vẹn thân thể, tức là quyền được sống, không bị tra tấn và bị bắt làm nô lệ (Điều 6, 7, và 8);
  • Quyền tự do và an toàn nhân thân, tức là quyền không bị bắt và bỏ tù vì các lý do không chính đáng (Điều 9 – 11);
  • Quyền bình đẳng trước luật, và mọi cáo trạng phải đúng trình tự pháp luật. Bị cáo về các tội hình sự có quyền được chấp nhận là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội theo luật. (Điều 14, 15, và 16);
  • Quyền tự do cá nhân được hiểu theo nghĩa tự do di chuyển, tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo, tự do phát biểu và giữ quan điểm mà không bị ai can thiệp[15], tự do lập hội và hội họp, tự do lập gia đình, quyền khai sinh, và quyền bí mật đời tư.(Điều 12, 13, 17 – 24);
  • Ngăn cấm bất kỳ hình thức tuyên truyền cổ vũ chiến tranh hay gieo giắc kỳ thị chủng tộc, tôn giáo. (Điều 20);
  • Quyền tham gia chính trị bao gồm quyền tự do thành lập, theo hoặc không theo một hội nhóm (trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác) và quyền bầu cử. (Điều 25);
  • Quyền được đối xử bình đẳng của các cộng đồng thiểu số trước luật. (Điều 26 và 27).

Nhiều trong số các quyền trên yêu cầu một số điều cụ thể mà các quốc gia hội viên phải thực hiện.

Phần IV (Điều 28–45) quy định các nguyên tắc thành lập và hoạt động của Ủy ban Nhân quyền cùng các công việc giám sát và báo cáo. Đồng thời, nó cũng yêu cầu các quốc gia thừa nhận năng lực của Ủy ban trong giải quyết mâu thuẫn giữa các nước liên quan đến việc thực thi Công ước. (Điều 41 và 42).

Phần V (Điều 46 và 47) giải thích rằng Công ước sẽ không bị diễn giải theo cách can thiệp vào hoạt động của Liên Hợp Quốc hoặc "quyền của mọi dân tộc được thụ hưởng và sử dụng một cách tự do và đầy đủ các nguồn tài nguyên của họ."[16]

Phần 6 (Điều 48–53) quy định cách thức phê chuẩn, thời gian có hiệu lực và cách sửa đổi bổ sung sau này.

Các Nghị định thư bổ sung

Có hai bản Nghị định thư bổ sung tùy chọn áp dụng cho Công ước. Nghị định thư bổ sung I thiết lập cơ chế cho phép các cá nhân trình báo lên Ủy ban Nhân quyền về các hành vi vi phạm Công ước.[17][18] Điều này dẫn đến sự ra đời của một bộ quy tắc phức tạp diễn giải Công ước và hướng dẫn cách thực thi.[19] Tính tới tháng 12 năm 2010, có 35 quốc gia đã ký và 113 nước tham gia Nghị định thư bổ sung I.[20]

Bản Nghị định thư bổ sung II yêu cầu hủy bỏ hình phạt tử hình; tuy nhiên, các nước được phép sử dụng nó trong trường hợp 'tội ác đặc biệt nghiêm trọng'[21] Tính tới tháng 12 năm 2010, Nghị định thư thứ II đã có 73 quốc gia tham gia và 35 nước đã ký.[22]

Tại Việt Nam

Việt Nam gia nhập ICCPR vào ngày 24/9/1982 [23]. Theo báo điện tử của Đảng Cộng Sản Việt Nam [24]:

Điều 1, Công ước của Liên hiệp Quốc về các quyền dân sự và chính trị, được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, đã ghi rõ: "Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá". Xét thấy nội dung của Công ước phù hợp với lợi ích chung của nhân loại nên Việt Nam đã sớm phê chuẩn và tham gia Công ước này.

Các quốc gia không tham gia Công ước

Phần lớn các nước trên thế giới là thành viên của Công ước. Tính tới tháng 12 năm 2010, 27 nước dưới đây chưa ký vào Công ước, hoặc đã ký nhưng chưa thông qua.[25]

Đã ký nhưng không thông qua

  1. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (05 tháng 10 năm 1998). Ngoại trừ Khu Đặc chính Hồng Kông chịu ràng buộc bởi Công ước.[26][Chu_thich 1]
  2. Comoros (25 tháng 11 năm 2008)
  3. Cuba (28 tháng 2, 2008)
  4. Nauru (12 tháng 11 năm 2001)
  5. São Tomé và Príncipe (31 tháng 10 năm 1995)

Không ký cũng không thông qua

Antigua và BarbudaBhutanBruneiSaint Kitts và NevisQuần đảo SolomonThành Vatican
MyanmaFijiKiribatiSaint LuciaTonga
MalaysiaQuần đảo MarshallMicronesiaẢ Rập Xê ÚtTuvalu

Đã ký nhưng không tham gia

  1. Đài Loan (tức Trung Hoa Dân Quốc)[Chu_thich 2]

Xem thêm

Liên kết ngoài

Chú thích