Danh sách người đứng đầu lãnh thổ Việt Nam thời Bắc thuộc

Bắc thuộc là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo thời kỳ lịch sử, có thể là Châu, Quận, Đô Hộ Phủ hay Phiên Trấn.

Chính quyền trung ương Trung Quốc cắt cử quan lại sang để cai trị, cũng lại theo cách gọi và phân chia khu vực của từng triều đại mà viên quan đó có thể là: Châu thái thú, Thứ sử, Châu mục, Thái thú, Kinh lược sứ hoặc Tiết độ sứ...

Dưới đây là bảng thống kê được tổng hợp từ các bộ chính sử của Việt NamTrung Quốc, ngoài những viên quan lại trực tiếp hoặc gián tiếp cầm quyền, những vị tướng lĩnh từng tham chiến trong công cuộc bình định phương Nam của các thiên triều Trung Hoa. Danh sách này còn bổ sung thêm một số: Trưởng sử, Thuộc lại, Bộ tướng, Công tào, huyện lệnh...cấp quận có ảnh hưởng đến cục diện chính trị trong châu và sứ giả, khâm sai được triều đình phái sang công cán hay ban bố chiếu chỉ.

Thời Nam Việt - Lưỡng Hán (208 TCN - 220)

Bản đồ Giao Chỉ bộ thời Lưỡng Hán

Năm 111 TCN, Hán Vũ Đế tiêu diệt Nam Việt, chia lãnh thổ nước này làm 6 quận.[1][2] Năm 106 TCN, lập thêm 3 quận mới, gộp chung vào gọi là bộ Giao Chỉ (cuối thời Đông Hán đổi thành Giao Châu). Chín quận đó bao gồm: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Đam Nhĩ, Châu Nhai (Đam Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (nay thuộc Quảng TâyQuảng Đông).[3] Chế độ nhà Hán lấy châu lãnh quận, mỗi quận có một vị Thái thú để trông coi, lại đặt ra chức Châu thái thú nhằm quản lý những Thái thú đó, đến đời Hán Tuyên Đế đổi gọi là Thứ sử. Sang thời Hán Nguyên Đế, triều đình cho rằng chức vụ này ở dưới hàng đại phu mà lại trông coi việc các quan ăn lương tới hai nghìn thạch nên không phù hợp, vì thế mới thay đổi thành chức Châu mục. Chức này vào bậc lương hai nghìn thạch, địa vị liền dưới hàng cửu khanh.[4] Bấy giờ, nhà Hán đã bỏ 2 quận ngoài đảo Hải Nam do ở ngoài biển xa xôi khó quản lý, bộ Giao Chỉ còn 7 quận. Đời Hán Ai Đế, bỏ chức Châu mục đổi lại là Thứ sử. Đời Hán Bình Đế lại đổi thành Châu mục. Năm 8, Vương Mãng lập ra nhà Tân, tuy nhiên triều đại này tồn tại ngắn ngủi nên không có gì đáng kể, các quan lại ở Giao Chỉ bộ vẫn trung thành với nhà Hán. Đời Hán Quang Vũ Đế lại đặt Thứ sử, mỗi Thứ sử đứng đầu coi giữ một châu, một châu trong đó thuộc về quan binh là Tư lệ hiệu úy.[5] Tại các huyện, chế độ Lạc tướng cha truyền con nối của người Việt bị bãi bỏ, không còn được duy trì như trước. Thay vào đó, nhà Đông Hán đặt các Huyện lệnh để tăng cường cai trị các huyện.[6] Đến đời Hán Linh Đế, vì uy quyền của Thứ sử quá nhẹ mà giặc giã nổi lên, do vậy nên đổi làm Mục bá, chọn các quan thượng thư vào hàng khanh bổ đi làm Châu mục. Không bao lâu, Hán Hiến Đế bỏ Giao Châu để thuộc về Kinh Châu, nhưng Châu mục là Lưu Biểu lại tự đặt ra chức Thứ sử. Như thế thì các chức quan cai trị có khi gọi là Thứ sử, có khi gọi là Châu mục, dẫu trước sau hoặc theo cũ hoặc thay đổi, tên gọi khác nhau, nhưng cũng vẫn là một chức quan đứng đầu coi các hàng châu quận.[7] Khi nhà Hán đặt bộ Giao Chỉ, lỵ sở của Thứ sử đặt ở Liên Thụ (tức Luy Lâu), năm 106 TCN dời trị sở sang huyện Quảng Tín ở quận Thương Ngô. Đến năm 210, đóng lỵ sở ở huyện Phiên Ngung. Các quận Giao Chỉ, Cửu ChânNhật Nam tương đương với địa bàn Bắc BộBắc Trung Bộ và 1 phần duyên hải Nam Trung Bộ trên lãnh thổ hiện tại của Việt Nam. Thời Tây Hán, trị sở của Thái thú Giao Chỉ đặt tại Long Uyên (tức là Long Biên) và thời Đông Hán đặt tại Mê Linh (tức là Yên Lăng).[8] Quận trị Cửu Chân đặt tại Tư Phố (nay thuộc Thanh Hóa), quận trị Nhật Nam đặt tại Tây Quyển[9][10]

Họ tênThời gian tại vịChức vụLý do mãn nhiệm
Đồ Thư[11]218 - 214 TCNHiệu uý[12]tử chiến[13][14]
Sử Lộc[15]218 - 210 TCN
Nhâm Hiêu[16]222 TCN - 206 TCNNam Hải quận uý[1]ốm chết[2]
Triệu Đà[17]206 TCN - 179 TCNHuyện lệnh Long Xuyên, Nam Hải quận uý[1][2]xưng vương tự lập[18][19]
Lục Giả[20]202 TCN và 179 TCNThái trung đại phu[1][2][21]hồi kinh phục mệnh[18][19]
Chu Táo[22]181 TCNLâm Lư hầu[1][2]lui binh[18][19]
Trang Trợ[23]137 TCNSứ giả[1][2][21]hồi kinh phục mệnh[18][19]
An Quốc Thiếu Quý[24]112 TCNSứ giả[1][2]bị giết[18][19][21]
Chung Quân[25]112 TCNGián nghị đại phu[1][2]bị giết[18][19][21]
Ngụy Thần[26]112 TCNDũng sĩ[1][2][18][19]
Trang Sâm[27]112 TCNSứ giả[1][2]bị bãi miễn[18][19]
Hàn Thiên Thu[28]112 TCNtướng quốc của Tế Bắc[1][2]tử trận[18][19][21]
Cù Lạc[29]112 TCNPhó tướng[1][2]tử trận[18][19][21]
Lộ Bác Đức[30]112 TCN - 111 TCNPhục Ba tướng quân[1][18]chuyển công tác[7][31]
Dương Bộc[32]112 TCN - 111 TCNLâu thuyền tướng quân[7][18]chuyển công tác[1][33]
Kiệt Hầu[34]112 TCN - 111 TCNQua thuyền tướng quân[1][2][18][19]chuyển công tác[35]
Điền Giáp[36]112 TCN - 111 TCNHạ lại tướng quân[1][2][18][19]chuyển công tác[37]
Hà Di[38]112 TCN - 111 TCNTrì nghĩa hầu[1][2][18][19]chuyển công tác[39]
Tô Hoàng[40]112 TCN - 111 TCNHải thường hầu[1][2][7][18]chuyển công tác[41]
Tôn Đô[42]112 TCN - 111 TCNLân thái hầu[1][2][7][18]chuyển công tác[43]
Cư Ông[44]112 TCN - 111 TCNTương thành hầu[1][2][7]chuyển công tác[45]
111 TCN - 107 TCNquan sứ của Nam Việt[46], Thái thú Giao Chỉ[7][47][48]
111 TCN - 107 TCNquan sứ của Nam Việt[46], Thái thú Cửu Chân[7][47]
Thạch Đới[49]106 TCN - ?Thái thú 9 quận[7][8][50]chết
Chu Chương[51]thời Hán Chiêu ĐếChâu Thái thú[8][50]
Ngụy Lãng[52]thời Hán Tuyên ĐếThứ sử Giao Chỉ bộ[50]
Ích Cư Xương[53]? - 54 TCNThứ sử Giao Chỉ bộ[54]
Đặng Huân[55]thời Hán Nguyên ĐếQuan mục Giao Chỉ bộ[54][56][57]
Tích Quang[58]1 - 33Thái thú Giao Chỉ[7][8][54][59]
Đặng Nhượng[60]8 - 29[61]Quan mục Giao Chỉ bộ[8][54][59][62][63]
Nhâm Diên[64]25 - 29Thái thú Cửu Chân[7][8]về kinh[54][65]
Tô Định[66]34 - 40Thái thú Giao Chỉ[8][54][67]bị trục xuất[7][50][68]
Đặng Thi Sách[69]? - 39huyện lệnh Chu Diên[7][67]bị giết[50][70]
Mã Viện[71]41 - 45Phục Ba tướng quân[67][72][73]hồi kinh[7][50][68][74]
Lưu Long[75]41 - 45Phù lạc hầu[7][76]hồi kinh[77][78]
Đoàn Chí[79]41 - 42Lâu thuyền tướng quân[7][76]bệnh chết[72]
Lý Thiện[80]thời Hán Minh ĐếThái thú Nhật Nam, Thái thú Cửu Chân[7][54][74][81]chết
Trương Trọng[82]thời Hán Minh Đếcối kế quận Nhật Nam[7]thăng chức[83][84]
Trương Khôi[85]thời Hán Minh ĐếThái thú Giao Chỉbị bãi miễn[54][86]
Hồ Cống[87]thời Hán Chương ĐếĐô uý quận Giao Chỉ[54][88]
Chu Xưởng[89]136Thái thú Giao Chỉ, Thứ sử Giao Chỉ bộ[7][50][54][74]
Phàn Diễn[90]137Thứ sử Giao Chỉ bộ[7]bãi miễn[54][74]
Giả Xương[91]138 - 139Thị ngự sử[92]hồi kinh[7][74]
Trương Kiều[93]138 - ?Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][54][94]
Chúc Lương[95]138 - 141Thái thú Cửu Chân[54][94][96]
Hạ Phương[97]144 và 160 - ?Thái thú Cửu Chân, Thứ sử Giao Chỉ bộ[7]chuyển công tác[50][54][74]
Lưu Tảo[98]145 - ?Thái thú Cửu Chân[74][99]
Dương Phò[100]Thứ sử Giao Chỉ bộ[54]
Nghê Thức[101]? - 157Thái thú Cửu Chântử trận[54]
Nguỵ Lãng[102]157 - ?Đô uý quận Cửu Chân[54][103]hồi kinh[104]
Chúc Điềm[105]159-160Thứ sử Giao Chỉ bộ[54]chết[106]
Sĩ Tứ[107]thời Hán Hoàn ĐếThái thú Nhật Nam[54][74]chết[7]
Ngu Thiều[108]thời Hán Linh ĐếThái thú Nhật Nam[109]chết[54]
Cát Kỳ[110]163Thứ sử Giao Chỉ bộ[111]bị bắt[54][112]
Đinh Cung[113]thời Hán Hoàn ĐếThứ sử Giao Chỉ bộ[54]hồi kinh[114]
Trương Bàn[115]158 - 166Thứ sử Giao Chỉ bộ[54]
Chu Ngung[116]178-181 và 182-183Mục thú Giao Chỉ, Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][114]bị sát hại[74][99]
Chu Tuấn[117]181Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][118]hồi kinh[54][74][119]
Giả Tông[120]184 - 186Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][121]hồi kinh[54][74]
Lý Tiến[122]187 - 189Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][54][74][123]
Chu Thặng[124]Thứ sử Giao Chỉ bộ[54]
Kiển Lan[125]Thái thú Giao Chỉ[54]
Lại Tiên[126]Thái thú Giao Chỉ[54]
Hoàng Cái[127]thời Hán Linh ĐếThái thú Nhật Nam[54][128]bị trục xuất[129][130][131]
Sĩ Vĩ[107][132]207 - 227Thái thú Cửu Chân[54][74]giáng chức[131]
Chu Phù[133]190 - 200Thứ sử Giao Chỉ bộ[128][134]bị trục xuất[54][74][130][135]
Ngu Bao[136]? - 200trưởng lại ở Giao Châu[128][131]bị trục xuất[130][137]
Lưu Nghiệm[136]? - 200trưởng lại ở Giao Châu[128][131]bị trục xuất[130][137]
Trương Tân[138]201 - 206Thứ sử Giao Châu[139][140][141][142]bị giết[54][131]
Khu Cảnh[143]võ tướng ở Giao Châu[54][74][144]
Di Liêu[145]thời Hán Hiến Đếbộ tướng ở Giao Chỉbị Bộ Chất trừ khử[130]
Tiền Bác[145]thời Hán Hiến Đếbộ tướng ở Giao Chỉbị Bộ Chất trừ khử[130]
Lại Cung[146]206Thứ sử Giao Châu[147]bị đánh đuổi[54][74]
Ky Vô Hạp[148]207-208Thứ sử Giao Châu[54][149]
Hấn Tông[150]209Thứ sử Giao Châu[54]
Đam Manh[151]thời Hán Hiến ĐếThái thú Cửu Chân[54][128][152]bị giết[130][131]
Chu Kinh[153]thời Hán Hiến Đế[128][130]
Phan Hâm[154]thời Hán Hiến Đếquan Công tào ở Cửu Chân[54][128][152]bị giết[130][131]
Phan Miêu[155]thời Hán Hiến Đế[128][130]
Chu Trị[156]202 - 222Thái thú Cửu Chân[54]chuyển công tác[157]
Bộ Chất[158]210 - 220Thứ sử Giao Châu[54][130]Chuyển công tác[159]
Sĩ Nhiếp[107][160]187 - 226Thái thú Giao Chỉ, Tổng đốc 7 quận[7][54][74][161]chết
Sĩ Huy[107][162]227Thái thú Cửu Chân, Thứ sử Giao Châu[131][161]bị giết[54][130]
Trương Mân[163]thời Hán Hiến Đếthuộc lại ở Giao Chỉ[7][54][131][161]
Trình Bỉnh[164]thời Hán Hiến Đếtrưởng sử ở Giao Chỉ[165]thăng chức[166]
Hoàn Lân[167]? - 227thuộc lại ở Giao Chỉ[130]bị đánh chết[131]
Hoàn Trị[168]thời Ngô Đại Đếphản tướng ở Giao Châu[130][131]
Hoàn Phát[169]thời Ngô Đại Đếphản tướng ở Giao Châu[130][131]
Sĩ Khuông[107][170]210 - 227trung lang tướng[131]hàng Lã Đại[130][161]
Sĩ Chi[107][171]210 - 227trung lang tướng[130]bị giết[131][161]
Sĩ Cán[107][171]210 - 227trung lang tướng[130]bị giết[131][161]
Sĩ Tụng[107][171]210 - 227trung lang tướng[130]bị giết[131][161]
Đái Lương[172]227Thứ sử Giao Châu[50][161][173]bị cự tuyệt[54][130][131]
Trần Thời[174]227Thái thú Giao Chỉ[130]bị cự tuyệt[54][131]
Cam Lễ[175]thời Ngụy Văn Đếvõ tướng ở Giao Chỉ[131]bị đánh bại[130]

Thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn (220 - 420)

Giao Châu (màu xanh) và Quảng Châu (màu vàng) thời Đông Ngô
chiến dịch Giao-Quảng (263 - 271)

Cuối thế kỉ thứ II, nhà Đông Hán sụp đổ, quần hùng nổi dậy, bấy giờ Giao Châu trực thuộc Kinh Châu. Lúc ấyấy, huyện Tượng Lâm của quận Nhật Nam đã tách ra để thành lập nước Lâm Ấp. Năm 207, Tào Tháo can thiệp vào Giao Châu, phong Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp làm Tổng đốc cả bảy quận. Sau trận Xích Bích, Lưu Bị có giai đoạn khống chế được Kinh Châu nên cũng cử quan lại sang coi sóc Giao Châu. Đến năm 210, Tôn Quyền đặt chức Thứ sử Giao Châu, chiếm giữ địa bàn trọng yếu này. Năm 221, Lưu Bị nối tiếp chính thống nhà Hán, mà Tôn Quyền lúc đó vẫn chỉ là lãnh chúa, tước Ngô hầu nên không công nhận Giao Châu thuộc Ngô và vẫn đặt chức Thứ sử trên danh nghĩa. Sĩ Nhiếp thuần phục các Thứ sử do Đông Ngô điều sang, đồng thời cũng khéo ngoại giao với nhà Thục Hán để giữ thế cân bằng. Bấy giờ Lai Hàng (thời Thục Hán gọi là Nam Trung) chưa có cơ sở hành chính (đến đầu đời Tấn, đất ấy mới được đặt là Ninh Châu), Lưu Bị đặt chức đô đốc để coi sóc mọi việc, đó cũng là trị sở của Thứ sử Giao Châu nhà Thục Hán. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, Đông Ngô chia Giao Châu ra làm 2 châu: Quảng Châu gồm các quận: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (mới) gồm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố (trị sở tại Long Biên). Khi dẹp tan loạn Sĩ Huy, Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ. Năm 229, do sách lược của thừa tướng Gia Cát Lượng "liên Ngô kháng Ngụy", nhà Thục Hán mới công nhận Giao Châu thuộc về Ngô. Năm 263, Lã Hưng làm chính biến dâng Giao Châu cho nhà Ngụy. Năm 264, Đông Ngô tái lập Quảng Châu. Năm 265, nhà Tấn thay thế nhà Ngụy, Giao Châu trở thành địa bàn tranh chấp giữa Tấn và Ngô. Năm 271, Ngô giành lại Giao Châu và lập thêm 3 quận: Tân Hưng (tách ra từ Giao Chỉ, đời Tấn đổi thành Tân Xương, nay thuộc Sơn Tây), Vũ Bình (tách ra từ Giao Chỉ, nay thuộc Hưng Yên) và Cửu Đức (tách ra từ Cửu Chân, nay thuộc Hà Tĩnh).[139] Năm 280, Tấn diệt Ngô, các đơn vị hành chính trên được giữ nguyên đến hết đời Tấn.

Họ tênTại vịChức vụLý do mãn nhiệm
Lã Đại[176]220 - 231[177]Thứ sử Giao Châu, Giao châu mục[50][128][131][178]hồi kinh[130][179]
Lý Khôi[180]221 - 229Lai Hàng đô đốc kiêm Giao Châu thứ sử[181]chuyển công tác[182]
Tiết Tống[183]231[184] - ?Thái thú Giao Chỉ[54][128][130][152]
Ngô Mạc[185]thời Ngô Đại ĐếThái thú Giao Chỉ[186]
Lục Dận[187]248 - 258[188]Thứ sử Giao Châu kiêm An Nam hiệu uý[189][190][191]hồi kinh[50][54][130][131]
Cốc Lãng[192]Thái thú Cửu Chân[54]
Kỳ Vô Hậu[193]Thứ sử Giao Châu[54]
Đào Cơ[194]Thứ sử Giao Châu[130][131][195]
Tôn Tư[196]258[197] - 263Thái thú Giao Chỉ[54][130]bị giết[50][131][198]
Đặng Tuân[199]263Sát chiến[130][200]bị giết[50][131][198]
Lã Hưng[201]263An Nam tướng quân, đô đốc Giao Châu[182][200]bị giết[50][130][131][198]
Lý Thống[202]Thời Ngô Cảnh Đếquan Công Tào ở Giao Chỉ[130][131][198]
Trần Tập[203]264 - 267Quan mục Giao châu, Thứ sử Giao châu[54][198]
Hoắc Dặc[204]264 - 270Thứ sử Giao Châu[50][130][131][205]chết[198]
Thoán Cốc[206]264Thái thú Giao Chỉ[130][207]chết[131][198][208]
Mã Dung[209]265Thái thú Giao Chỉ[50][207]chết[130][131][198]
Ngô Hưng266
Dương Tắc[210]266 - 271Thái thú Giao Chỉ, Thứ sử Giao Châu[50][195][207]bị bắt[130][131][182]
Lưu Tuấn[211]268Thứ sử Giao Châu[50][54]tử trận[130][131]
Tu Tắc[212]268Đô đốc Giao Châu[54][213]tử trận[130][131]
Cố Dung[214]268Tướng quân[130][131]rút quân[215][216]
Đổng Nguyên[217]268 - 271Thái thú Cửu Chân[50][182][207]Tử trận[130][131][216]
Mao Cảnh[218]271Thái thú Giao Chỉ[54][182]Tử trận[130][131][215]
Vương Tố[219]271Thái thú Cửu Chân[50][130][131][182][207][216]
Giải Hệ[220]? - 271bộ tướng ở quận Cửu Chân[195]bị giết[130][131]
Giải Tượng[221]thời Ngô Mạt Đếbộ tướng ở Giao Châu[130][131][195]
Lý Tùng[222]271bộ tướng ở Giao Châu[195][207]bị quân Ngô bắt[130][131]
Thoán Năng[222]271bộ tướng ở Giao Châu[195][207]bị quân Ngô bắt[130][131]
Mạnh Cán[223]thời Tấn Vũ ĐếThái thú Nhật Nam[130][131][182][207]
Mạnh Thông[224]thời Tấn Vũ ĐếNha môn tướng[130][182]
Lý Tộ[225]thời Tấn Vũ ĐếCông Tào quận Cửu Chân[130][131]
Lê Minh[226]thời Ngô Mạt Đếbộ tướng ở Giao Chỉ[130][131]
Ngu Phiếm[227]269 - 271Thứ sử Giao Châu[54][109][130][131]chết[195]
Tiết Hủ[228]269 - 271Uy Nam tướng quân[54][130][131]hồi kinh[195][229]
Lý Húc[230]269 - 270Giám quân[54][131]bị xử tử[130][215]
Từ Tồn[230]269 - 270Đốc quân[54][131]bị xử tử[130][215]
Phùng Thỉ[231]269Tướng dẫn đường thủy[130]bị giết[215]
Lương Kỳ[232]271Võ tướng ở Phù Nghiêm[130][131][207]
Đào Hoàng[233]271 - 300Tiền bộ Đô đốc Giao Châu, Thứ sử Giao Châu[50][207]chết[130][131][195]
Đào Dung[234]280Sứ giả[131][195][235]
Tu Doãn[236]thời Ngô Mạt ĐếThứ sử Giao Châu[131][195]chuyển công tác[130]
Thạch Sùng[237]thời Tấn Vũ ĐếNam Man hiệu uý kiêm Giao Chỉ thái phòng sứ[238][239]chuyển công tác[21][240]
Ngô Ngạn[241]300 - 311Thứ sử Giao Châu[207][242]xin nghỉ[130][131]
Cố Bí[243]312 - 315Thứ sử Giao Châu[50][207]chết[130][131]
Cố Sâm[244]315 - 317Thứ sử Giao Châu[207]chết[130][131]
Cố Thọ[245]317Thứ sử Giao Châu[207]bị sát hại[130][131]
Hồ Triệu[246]? - 317Trưởng sử ở Giao Châu[207]bị giết[130][131]
Lương Thạc[247]317 - 323Thái thú Tân Xương, Thái thú Giao Chỉ[207]bị chém chết[50][130][131]
Vương Đôn[248]317 - 324Đô đốc chinh thảo lục châu chư quân sự[207]chết[249][250][251]
Đào Khản[252]318 - 324Đô đốc Giao Châu chư quân sự, Thứ sử Giao Châu[253][254]chuyển công tác[130][131][255]
Đào Oai[256]317 - 319Thứ sử Giao Châu[195][207]chết[130][131]
Đào Thục[257]320Thứ sử Giao Châu[130][131][207]chết[195]
Đào Tuy[258]321 - 322Thứ sử Giao Châu[99][130][131][195]
Vương Cơ[259]322Thứ sử Giao Châu[207]bị đánh bại[130][131]
Đỗ Hoằng[260]322Thứ sử Giao Châu[130][207]
Đỗ Tán[261]? - 322quan Tư Mã ở Giao Chỉ[130]
Lưu Trầm[262]322Tú tài ở Giao Châu[207]bị bắt[130]
Ôn Thiệu[263]322Bộ tướng ở Quảng Châu[207]bị giết[130]
Tu Trạm[264]322Thứ sử Giao Châu, Thái thú Cửu Chân[213]bị xử tử[207]
Vương Lượng[265]322 - 323Thứ sử Giao Châu[50][207][213]bị giết[130][131]
Cao Bảo[266]Tham quân[50][130][131][253]
Nguyễn Phóng[267]325Thứ sử Giao Châu kiêm Dương oai tướng quân[207]chết[50][130][131]
Biện Triền[268]Thái thú Giao Chỉ[207]
Chử Đào[269]Thái thú Cửu Chân[207]
Trương Liễn[270]326 - 328Thứ sử Giao Châu[207][271]
Tăng Khối[272]328[207][271]
Hạ Hầu Lãm[273]đời Tấn Mục ĐếThái thú Nhật Nam[274]bị giặc giết[207]
Chu Phiên[275]? - 347Thứ sử Giao Châu[207][274]
Lưu Hùng[276]đời Tấn Mục Đếquan Đốc Hộ[207][274]
Đằng Tuấn[277]đời Tấn Mục Đếquan Đốc Hộ[207][274]
Dương Bình[278]348 - 352Thứ sử Giao Châu[207][274]
Nguyễn Phu[279]353 - 356Thứ sử Giao Châu[130][131][207][274]
Châu Phụ[280]357 - ?Thứ sử Giao Châu[50][281]
Ôn Phóng Chi[282]357 - 360Thứ sử Giao Châu[207][283]chết[284][285]
Đỗ Bảo[286]? - 359Thái thú Giao Chỉ[283][285]bị giết[207]
Nguyễn Lãng[287]? - 359quan Biệt Giá[283][285]bị giết[207]
Đằng Hàm[288]361 - ?Thứ sử Giao Châu[207][289]
Cát Hồng[290]huyện lệnh Câu Lậu[207][291]
Khương Tráng[292]Thứ sử Giao Châu[207]
Phó Vĩnh[293]Thái thú Giao Chỉ[207]
Đằng Tốn[294]Thứ sử Giao Châu[207]
Lý Tốn[295]375 - 381Thái thú Cửu Chân[50][207][296][297]bị chém chết[130][131]
Đặng Độn Chỉ[298]381 - ?Thứ sử Giao Châu[50][130]chuyển công tác[296][297]
Đỗ Viện[299]? - 410Thái thú Giao Chỉ, Thứ sử Giao Châu[130][131][300]chết[50][207][296][297][301]
Quế Nguyên[302]? - 399Thái thú Nhật Nam[186]bị giặc bắt[130]
Tào Bính[303]? - 399Thái thú Cửu Đức[186]bị giặc bắt[130]
Đặng Dật[304]đời Tấn An Đếquan Đốc Hộ[130][186][296][297]
Đỗ Tuệ Độ[305]410 - 423Thái thú Cửu Chân, Thứ sử Giao Châu[50][306][307][308]chết[309]
Đỗ Huệ Kỳ[310]Thái thú Giao Chỉ[50][130][186][296][297]
Đỗ Chương Dân[311]Thái thú Cửu Chân[50][130][186][296][297]
Lư Tuần[312]? - 411Thứ sử Quảng Châu[130][131][313][314][315]tự tử[50]
Lý Thoát[316]? - 411bộ tướng ở Cửu Chân[306]bị chém chết[130][131]
Chân Tri[317]413Giao long vương[186]bị chém chết[130]
Phạm Kiện[318]413võ tướng của Lâm Ấp[186]tử trận[130]
Na Năng[319]413bộ tướng ở Lâm Ấp[186]bị bắt[130]
Giang Du[320]thời Tấn Cung ĐếTrưởng sử ở Giao Châu[130][307][308]
Đỗ Hoằng Văn[321]417 - 427Thái thú Cửu Chân, Thứ sử Giao Châu[50][322][323]hồi kinh[130][131][324]

Thời Nam Triều (420 - 589)

Đầu thế kỉ thứ V, nhà Tống thay nhà Đông Tấn thống trị phương nam Trung Quốc, bấy giờ ở phương bắc nhà Ngụy cũng chấm dứt giai đoạn Ngũ Hồ thập lục quốc. Một cục diện cát cứ mới đã xuất hiện, sử gọi đó là thời Nam Bắc triều. Thời kỳ này, Nam triều nối tiếp nhà Tấn thống trị Giao Châu gồm: Tống, Tề, Lương, Trần. Năm 471, nhà Tống tách quận Hợp Phố khỏi Giao Châu và hợp với một số quận khác của Quảng Châu thành lập Việt Châu, lại đặt quận Tống Bình tách từ quận Giao Chỉ và đặt thêm quận Nghĩa Xương.[325][326] Việc quân sự ở Giao châu thường giao cho Thứ sử Quảng châu kiêm giữ; còn các chức quận huyện quan thì do Thứ sử Giao Châu tự ý bổ nhiệm. Thời Lương Vũ Đế cải cách hành chính trong nước, chia đất đặt thêm nhiều châu nhỏ, trong đó tại Giao châu chia quận Giao Chỉ đặt ra Hoàng châu và quận Ninh Hải; lấy quận Cửu Chân lập ra Ái châu; lấy quận Nhật Nam đặt ra Đức châu, Lợi châu và Minh châu.[190] Người đứng đầu Giao Châu vẫn là Thứ sử, phụ trách chung toàn bộ công việc của các quận trực thuộc. Tại từng quận, các triều đại này vẫn có một viên Thái thú coi việc dân sự và một viên Đô úy coi việc quân sự như trước. Giai đoạn này, thủ phủ Giao Châu nằm ở huyện Long Uyên

  • Vương Huy (427-430)

Vương Huy (Toàn thư chép là Vương Huy Chi), trước giữ chức Đình uý[207], được nhà Tống cử sang thay thế Đỗ Hoằng Văn làm Thứ sử Giao Châu[50][130][131]

  • Lưu Nghĩa Khang

Lưu Nghĩa Khang tên lúc nhỏ là Xa Tử, người Tuy Lý, Bành Thành, là con trai thứ tư của Tống Vũ đế Lưu Dụ. Trong năm Nguyên Gia (424-453) đời Tống Văn Đế, làm Đô Đốc quân sự cả Châu Giang, Châu Giao và Châu Quảng.[207][327][328]

  • Nguyễn Di Chi (431-432)

Nguyễn Di Chi làm Thứ sử Giao Châu, năm 431 vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại trực tiếp dẫn quân kéo vào quận Cửu Chân, Di Chi hưng binh công phá.[130] Kịp lúc vượt biển gặp gió to, đến ba ngày mà không tìm được chỗ nghỉ ngơi, đêm lại gặp giặc ở bãi Thọ Lệnh, quân thủy của Dương Mại tới đánh đông đến 500 chiếc thuyền. Di Chi bắn trúng người lái thuyền của Dương Mại, nên thuyền giặc tan vỡ, có chiếc thuyền nhỏ đến chở Dương Mại chạy trốn. Di Chi bị gió phiêu bạt hơn 100 dặm, liệu thế không thắng được, bèn trở về Bắc.[207]

  • Nguyễn Vô Chi

Nguyễn Vô Chi (có sách chép là Nguyễn Di Chi) tự Đạo Sinh, giữ chức đội chủ,[130] là bộ tướng của Thứ sử Nguyễn Di Chi, lợi dụng lúc vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại kéo binh xâm nhập Giao Châu, Vô Chi lĩnh 7000 quân sĩ đánh úp thành Khu Túc (Cương mục chép là Khu Lật) của nước Lâm Ấp nhưng không được đành quay trở lại.[207]

  • Lý Tú Chi

Lý Tú Chi vốn giữ chức Hữu quân Tham quân, năm 433, giữ chức Thứ sử Giao Châu thay Nguyễn Di Chi.[130]

  • Lý Đam Chi

Lý Đam Chi chưa rõ chức vụ gì, cai trị 434 - 435

  • Cẩu Đạo Phúc

Cẩu Đạo Phúc (có sách chép là Từ Dạo Phúc), chưa rõ chức vụ gì, cai trị 435 - 437

  • Từ Xâm Chi

Từ Xâm Chi chưa rõ chức vụ gì, cai trị 437 - 443

  • Đàn Hoà Chi(443 - 445)

Đàn Hoà Chi người đất Kim Hương thuộc Cao Bình, từng giữ chức Long Nhương tướng quân, Thứ sử Giao Châu.[207] Năm 436, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại lại xua quân sang cướp phá quận Cửu Chân.[329][330] Hoà Chi phụng mệnh vua Tống dẹp loạn, ông sai Hộ tào tham quân của phủ là bọn Khương Trọng Cơ đi trước đến gặp Dương Mại, bị Dương Mại bắt giữ. Hòa Chi giận, tiến vây tướng của Lâm Ấp là Phạm Phù Long ở thành Khu Túc.[50][331] Dương Mại sai tướng là Phạm Côn Sa Đạt đến cứu. Hoà Chi cử Tông Xác lén đem quân đón đánh Sa Đạt, phá tan được. Sau đó, Hòa Chi hạ thành Khu Túc, chém Phù Long, thừa thắng tiến vào Tượng Phố. Đàn Hòa Chi nhờ công này được nhận chức Hoàng môn thị lang, lãnh Việt kị hiệu úy, Hành Kiến vũ tướng quân.[130][131] Sau này, Đàn Hòa Chi chuyển công tác, do can tội say rượu và nhũng loạn của công, bị bãi chức. Lúc bị bệnh, thấy ma quỷ rợ Hồ hiện hình hành hạ, rồi chết.[332][333]

  • Khương Trọng Cơ

Khương Trọng Cơ là tham quân trong phủ Thứ sử Giao Châu, được Đàn Hoà Chi cử sang Lâm Ấp hoà đàm, bị người Lâm Ấp bắt giữ, không rõ kết cục thế nào[130][131][330]

  • Tiêu Cảnh Hiến (446 - 454) và 445

Tiêu Cảnh Hiến giữ chức Tư mã,[207] cùng Đàn Hòa Chi dẫn binh chinh phạt Lâm Ấp, lập nhiều chiến công hiển hách[131][330]

  • Tông Xác

Tông Xác tự Nguyên Thiên, người quận Nam Dương, giữ chức Trấn Vũ tướng quân,[50] lĩnh ấn tiên phong trong cuộc chinh phạt Lâm Ấp[207] đã khéo bày cách làm hình Sư tử để chống nhau với voi dữ của nước này.[130][334] Quân Lâm Ấp thua to, Phạm Dương Mại chạy thoát, thu được đồ châu báu lạ không biết bao nhiêu mà kể. Riêng Tông Xác không lấy một thứ gì, ngày về nhà cũng chỉ có khăn áo xác xơ.[131][335]

  • Phạm Phù Long

Phạm Phù Long (Tấn thư chép là Phạm Phù Long Đại, Việt sử lược chép là Phạm Phục Long) là võ tướng của Lâm Ấp, bị vây hãm ở thành Khu Túc nên phải cầu viện binh.[50] Vua Lâm Ấp cử Phạm Côn Sa Đạt đến cứu thì bị tướng nhà Tống là Tông Xác đón đánh phải bỏ chạy, sau khi thành Khu Túc bị hạ thì bị Đàn Hòa Chi chém chết.[130][131][330]

  • Phạm Côn Sa Đạt

Phạm Côn Sa Đạt là võ tướng của Lâm Ấp, được vua Lâm Ấp phái đi cứu Phạm Phù Long. Trên đường đi gặp phải phục binh của Tống Xác đánh cho tan tác, không rõ kết cục thế nào?[130][131][330]

  • Hoàn Hoằng (454 - 456)

Hoàn Hoằng (có sách ghi là Hoàn Phiệt) tự Thúc Duật, làm Thứ sử Giao Châu nhà Tống, tiền của kể đến hàng vạn, vì vua Hiếu Võ có tính tham của cải, hễ có người nào làm quan ăn lương 2.000 thạch (tức chức Thái thú) khi bãi chức về nước, thì bắt theo hạn định mà nạp của cải và đánh bạc.[207]

  • Viên Hoành

Viên Hoành chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm 455

  • Phi Yên

Phi Yên chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm 456 - 458

  • Viên Lãng

Viên Lãng chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm 458 - 462

  • Đàn Dực Chi

Đàn Dực Chi chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm 462 - 465

  • Nguyễn Phiên

Nguyễn Phiên chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm nào?

  • Nguyễn Nghiên

Nguyễn Nghiên làm Thứ sử Giao Châu về thời nhà Tống, chưa rõ chính xác tại vị năm nào, viết chữ thảo rất tốt.[207]

  • Trương Mục Chi (465 - 468)

Trương Mục Chi tự Tư Tịnh, thân sinh của bà Trương Hậu nhà Lương, lúc trẻ tuổi là người đúng đắn, và hoà nhã, giữ chức Tán kỵ Thị lang, sau xin làm Thái thú quận Giao Chỉ, có chính tích hay.[207]

  • Lưu Mục (? - 468)

Lưu Mục (có sách chép là Trương Mục), giữ chức Thứ sử Giao Châu, bị bệnh chết năm 468, các bộ thuộc đem từ Trung Hoa sang đều bị người trong châu là Lý Trường Nhân thanh trừng[130][131]

  • Ngô Hỷ (468)

Ngô Hỷ người Lâm An, Ngô Hưng, còn có tên là Hỷ Công. Tham gia bình định được Kinh Châu, được thăng làm Tiền quân tướng quân, tăng ấp 300 hộ. Năm 468, đổi phong Đông Hưng huyện hầu, hộ ấp như trước, tiếp tục làm Sứ trì tiết, Đốc chư quân sự của Giao Châu, 2 quận Úc Lâm, Ninh Phổ thuộc Quảng Châu, Phụ quốc tướng quân, Giao Châu thứ sử thay thế cho Lưu Mục nhưng không nhận chức.[336][337][338]

  • Tông Phụng Bá (468)

Tông Phụng Bá được Tống đế phong làm Thứ sử Giao Châu bởi Ngô Hỷ từ chối chức vụ này, tuy nhiên Phụng Bá cũng không dám sang bởi lúc đó ở Giao Châu có Lý Trường Nhân đang chống giữ.[338][339][340]

  • Lưu Bột (468)

Lưu Bột là ông nội của Lưu Kỳ, vốn giữ chức Nam Khang tướng, do Ngô Hỷ và Tông Phụng Bá đều không nhận chức, nhà Tống phái Bột sang thay Lưu Mục làm Thứ sử Giao Châu.[207] Bột bị Lý Trường Nhân chống trả quyết liệt, chưa được bao lâu thì ốm chết.[130][131]

  • Trần Bá Thiệu

Trần Bá Thiệu chưa rõ chức vụ gì, nắm quyền vào năm 469 - 477

  • Lý Trường Nhân (468 - 478)

Lý Trường Nhân (Việt sử lược chép họ Nguyễn) người Giao châu. Năm 468, Thứ sử Giao Châu là Lưu Mục chết, ông tự xưng là Thứ sử. Sau đó, ông sai sứ sang xin vua Tống cầu phong nhưng Tống Minh Đế chỉ cho ông làm Giao Châu hành kinh lược sứ. Năm 468, Lưu Bột sang làm Thứ sử Giao Châu, Lý Trường Nhân chống cự được ít bữa thị Bột ốm chết.[50] Nhân đó, Trường Nhân sai sứ xin hàng, tự hạ xuống chức Hành Châu sự, tức người chấp hành công việc của châu. Thực tế Lý Trường Nhân được chuẩn cho đứng đầu cai quản Giao Châu, tương đương như Thứ sử, nhưng Nhân xin tự hạ chức danh chỉ gọi là "Hành châu sự".[130][131]

  • Thẩm Hoán (479)

Thẩm Hoán vốn là Thái thú Nam Hải, khi Lý Trường Nhân chết được nhà Tống cử sang làm Thứ sử Giao Châu.[50] Tuy nhiên em họ Trường Nhân là Lý Thúc Hiến chia quân chống giữ, Hoán không sang được Giao Châu đành lưu lại Uất Lâm rồi chết ở đó.[130][131]

  • Thẩm Cảnh Đức

Thẩm Cảnh Đức chưa rõ chức vụ gì, nắm quyền vào năm 477 - 478

  • Triệu Siêu Dân

Triệu Siêu Dân chưa rõ chức vụ gì, nắm quyền vào năm 478 - 485

  • Lý Thúc Hiến (479 - 485)

Lý Thúc Hiến (Việt sử lược chép họ Nguyễn) là em thúc bá với Lý Trường Nhân, sau khi anh họ chết, Thúc Hiến do chân quyền Thái thú Vũ Bình, lên thay Trường Nhân, lĩnh việc Giao Châu. Vì hiệu lệnh của mình chưa được thi hành, nên sai sứ sang nhà Tống xin làm Thứ sử.[50] Nhà Tống lấy Thái thú Nam Hải là Thẩm Hoán làm Thứ sử Giao Châu, cho Thúc Hiến làm Ninh Viễn quân tư mã, giữ chức thái thú hai quận Tân Xương và Vũ Bình. Thúc Hiến không chịu thu nạp Thẩm Hoán, đem quân chấn giữ các khu vực hiểm yếu. Năm 479, Tề Cao Đế lên ngôi công nhận Thúc Hiến làm Thứ sử.[341] Năm 485, Tề Vũ Đế sai Đại tư nông Lưu Khải làm Thứ sử Giao Châu, Thúc Hiến không chống nổi phải sang đầu hàng.[130][131]

  • Lưu Hiệu

Lưu Hiệu chưa rõ chức vụ gì, nắm quyền vào năm 485

  • Lưu Khải (485 - 487)

Lưu Khải vốn giữ chức Đại tư nông, được Tề Vũ Đế phái sang dẹp Lý Thúc Hiến ở Giao Châu vì tội không chịu cống nạp.[50] Khải điều động quân các quận Nam Khang, Lư Lăng và Thủy Hưng sang đánh. Thúc Hiến sai sứ xin bãi binh, dâng mũ đâu mâu bằng bạc nguyên cất, đủ dùng cho hai mươi đội, và lông công để trang sức. Vua Tề không nghe, Thúc Hiến sợ bị Lưu Khải đánh úp, mới đi đường tắt từ Tương Châu sang chầu vua Tề, còn Lưu Khải vào Giao Châu thay thế làm Thứ sử.[130][131]

  • Hoàn Duệ

Hoàn Duyệt là em Thứ sử Hoàn Hoằng, làm quan (chưa rõ chức vụ gì) ở quận Cửu Chân.[342]

  • Hoàn Thâm

Hoàn Thâm là con trai của Thứ sử Hoàn Hoằng, giữ chức Võ giám, người nho nhã có học thức, được Lưu Khải đề bạt bèn khiến đi theo sang Giao Châu, Thâm đi chưa đến nơi đã chết.[207]

  • Phòng Pháp Thừa (488-490)

Phòng Pháp Thừa (Việt sử lược chép là Phòng Pháp Tông, Toàn thư chép là Phòng Pháp Thặng) trước là Thái thú Thủy Hưng, chuyển sang làm Thứ sử Giao Châu thay cho Lưu Khải, chỉ ham đọc sách, thường có bệnh, không làm việc, sai bọn sử lại cung đốn, phục dịch.[50] Vì thế, viên trưởng lại Phục Đăng Chi chuyên quyền tự thay đổi các tướng lại.[343] Quan lục sự Phòng Tú Văn đem việc đó nói với Pháp Thừa, do đó Đăng Chi bị bắt giam 10 ngày. Đăng Chi buộc phải đút lót người nhà Thứ sử, nên mới được tha.[131] Tiếp đó Đăng Chi đã đem bộ khúc bất ngờ đánh úp châu trị, bắt giam Pháp Thừa, rồi tâu về triều đình là Pháp Thừa bị bệnh tim, không thể trông coi việc chính trị ở Giao châu được.[130] Vua Tề phế Pháp Thừa triệu về kinh, sử dụng Đăng Chi làm thứ sử, Pháp Thừa về đến Ngũ Lĩnh thì chết[207]

  • Phòng Tú Văn

Phòng Tú Văn (Cương mục là Phòng Quý Văn) giữ chức quan lục sự ở phủ Giao Châu, đem việc Phục Đăng Chi chuyên quyền báo cáo với Thứ sử Phòng Pháp Thừa khiến ông ta bị giam hãm, không thấy sử sách nói đến kết cục của nhân vật này.[130][131]

  • Thôi Cảnh Thúc

Thôi Cảnh Thúc là em rể của Phòng Pháp Thừa, khi Phục Đăng Chi bị bắt đã nhờ người hối lộ cho Cảnh Thúc, nhờ đó Đăng Chi mới được tha.[130][131]

  • Phục Đăng Chi (490 - 494)

Phục Đăng Chi vốn là trưởng lại ở phủ Giao Châu, do bất mãn với chính quyền sở tại nên quật khởi làm binh biến lật đổ Thứ sử Phòng Pháp Thừa,[50] dâng biểu lên vua Tề được chỉ định thay thế Thừa làm Thứ sử Giao Châu.[130][131][207][343]

  • Tống Linh Trí

Tống Linh Trí không rõ chức vụ gì, tại nhiệm năm 494

  • Tống Từ Minh

Tống Từ Minh không rõ chức vụ gì, tại nhiệm năm 495

  • Lý Khải (495 - 505)

Lý Khải (Toàn thư chép là Lý Nguyên Khải, Việt sử lược chép là Nguyễn Khải) thay Phục Đăng Chi làm Thứ sử Giao Châu,[50] gặp lúc nhà Tề thiện nhượng nhà Lương, nhân chưa có ân uy gì với tân triều nên nổi dậy tạo phản.[207] Trưởng sử là Lý Tắc phản kháng và bình định được cuộc binh biến, lại dẹp tan dư đảng của Khải là Lý Tôn Lão, nhân đó Lương Vũ Đế hạ chiếu phong Tắc làm Thứ sử Giao Châu.[130][131]

  • Lý Tôn Lão

Lý Tông Lão (Cương mục chép là Nguyễn Tôn Hiếu) là bộ tướng của Lý Khải, sau khi Lý Khải chết đã dấy binh làm loạn, bị Lý Tắc chém chết.[130][131]

  • Lý Tắc (505 - 541)

Lý Tắc (Việt sử lược chép là Nguyễn Tắc) vốn là Trưởng lại ở Giao Châu, nhân lập công dẹp loạn Lý Khải và chấn áp dư đảng nên được Lương Vũ Đế ân chuẩn phong làm Thứ sử Giao Châu[50][130][131][207]

  • Vương Nhiếp (505 - 506)

Vương Nhiếp giữ chức Thứ sử Giao Châu đời nhà Lương, chưa rõ chính xác tại vị trong niên đại nào.[207]

  • Tiêu Tư (535 - 542)

Tiêu Tư (có sách ghi là Tiêu Dư) tự Thế Thái, vốn là Vũ Lâm hầu, tôn thất nhà Lương.[344] Giữ chức Thứ sử Giao Châu, vì hà khắc tàn bạo, mất lòng người nên bị quan Giám quân ở quận Cửu Đức là Lý Bí nổi dậy đánh đuổi, bỏ chạy về Quang Châu[207][345][346][347]

  • Tinh Thiều

Tinh Thiều người Giao Châu, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan. Thượng thư bộ Lại nhà Lương là Sái Tôn cho rằng họ Tinh trước không có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho chức Quảng Dương môn lang. Thiều lấy làm nhục, trở về làng rồi theo Lý Bí dấy binh tạo phản, trở thành khai quốc công thần, không rõ kết cục thế nào[345][346][347]

  • Lý Bí

Lý Bí (có sách chép là Lý Bôn, Việt sử lược ghi thành Nguyễn Bôn) người Thái Bình phủ Long Hưng. Tổ tiên là người Bắc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam.[347] Lý Bí làm Giám quân ở quận Cửu Đức, nhân Thứ sử Tiêu Tư bạo ngược đã liên kết với hào kiệt mấy châu nổi dậy đánh đuổi, tự lập làm Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu Vạn Xuân.[345][346]

  • Tôn Quýnh (542)

Tôn Quýnh vốn là Thứ sử Cao Châu, khi Tiêu Tư bị Lý Bí đánh đuổi đã được vua Lương hạ lệnh đem binh sang Giao Châu chấn áp. Quýnh lấy cớ đang mùa xuân, khí lam chướng đang thịnh, xin chờ qua mùa thu sẽ đánh. Tư thúc dục khiến đi, rồi quân lính tan rã cả, phải trở về. Tư vu tấu cho Quýnh và Hùng có ý dung giặc, đều bị tội tử hình.[345][346]

  • Lư Tử Hùng (542)

Lư Tử Hùng là Thứ sử Tân Châu, cùng Tôn Quýnh được vua Lương điều động sang Giao Châu đánh Lý Bí, quân đi đến Hợp Phố, 10 phần chết đến 6, 7 phần, tan rã mà về. Tiêu Tư tâu vu với vua Lương rằng Quýnh và Tử Hùng dùng dằng không chịu đi, đều bị buộc phải tự tử.[207][345][346]

  • Tiêu Hoán

Tiêu Hoán (có sách chép là Tiêu Ánh), giữ chức Thứ sử Quảng Châu, vua Lương hạ lệnh cho Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đánh sang Giao Châu. Hai người này còn do dự, Tiêu Ánh bị Tiêu Tư hối thúc nên ép họ phải ra quân, kết quả thất bại quân chết quá nửa. Hoán đã hợp tâu với Tiêu Tư đổ tội hết lên đầu 2 vị Thứ sử kia, khiến họ bị xử tử.[345]

  • Dương Phiêu

Dương Phiêu (có sách chép tên là Thiêu, là Thiệu hoặc Phiếu) người Tây Huyện thuộc Thiên Thủy, được nhà Lương phong làm Thứ sử Giao Châu,[50] cùng với Trần Bá Tiên, đem binh đánh Lý Bí, tiến binh đến đất Gia Ninh, Bí chạy trốn trong động Khuất Lão (có sách ghi là Khuất Liệu).[207] Ít lâu sau, Lý Bí ốm chết (có sách nói bị người dân vùng Dạ Trạch bắt được chép đầu dâng cho quân Lương), binh quyền giao cho con trai Thái phó Triệu Túc là Triệu Quang Phục, không thấy sử sách nói đến kết cục của Dương Phiêu[345][346][347]

  • Tiêu Bột (550 - 557)

Tiêu Bột làm Thứ sử Định Châu, Lương Vũ Đế hạ lệnh đem binh phối hợp với Dương Phiêu và Trần Bá Tiên công phá Giao Châu. Bột biết ý các tướng sĩ sợ phải đi đánh xa, nên nói dối để Dương Phiêu ở lại.[345][346] Sau Trần Bá Tiên không đợi quân của Bột nữa, tự mình nhận ấn tiên phong, trục xuất quân Lý Bí khỏi Gia Ninh. Nhà Lương sai Vương Lâm xuống miền nam mục đích kiềm chế Tiêu Bột, khi mâu thuẫn đang căng thẳng thì Lâm được phải về triều vì có biến cố. Năm 557, Trần Bá Tiên cướp ngôi nhà Lương nên thanh trừng người họ Tiêu, Bột quyết định làm phản bị Thái thú Cửu Đức là Trần Pháp Vũ giết chết ở Thủy Hưng.

  • Trần Bá Tiên (545 - 550)

Trần Bá Tiên tự Hưng Quốc, người Ngô Hưng, làm Tham quân ở Quảng Châu, thăng lên chức Tư Mã Giao Châu hợp với Dương Phiêu đánh Lý Bí.[207] Phiêu tập hợp các tướng lại đất Giang Tây, Thứ sử Quảng Châu là Tiêu Bột lại trù trừ chưa dám tiến binh. Bá Tiên xin làm Tiên phong, dẫn quân đến đâu là đánh tan hết, khiến Lý Bí chết ở động Khuất Lão.[50] Nhờ có công ấy, Tiên được thăng Thái thú quận Cao Yêu, đốc suất quân sự cả bảy quận.[348] Năm 550, vua Giản Văn Đế nhà Lương phong Bá Tiên làm Binh uy tướng quân kiêm Thứ sử Giao Châu.[349] Bấy giờ Triệu Quang Phục đang cầm cự với quân Lương ở đầm Dạ Trạch, Bá Tiên dùng sách lược vây hãm lâu dài mục đích khiến cho lương thảo hết tự nhiên phải đầu hàng.[345] Gặp lúc nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, Lương đế triệu Bá Tiên về nước, sau khi dẹp loạn, Bá Tiên thâu quyền lớn trong tay, rồi ép Lương Kính Đế phải thiện nhượng cho mình, lập ra nhà Trần.[346][347][350]

  • Dương Sàn (545 - 550)

Dương Sàn là tỳ tướng theo Trần Bá Tiên sang chinh phạt Giao Châu, sau khi Bá Tiên về kinh dẹp loạn Hầu Cảnh, bị Triệu Quang Phục tung quân đánh đuổi. Sàn chống cự không nổi, thua trận chết trong đám loạn binh, quân Lương tan vỡ rút hết về bắc[345][346][347]

  • Vương Lâm (554) và (557 - 560)

Vương Lâm được Lương Nguyên Đế cử xuống phương nam hỗ trợ cho Tiêu Bột, Lâm trú đóng gần một năm. Cảm thấy bị sức ép từ triều đình do việc bổ nhiệm và trú đóng của Vương Lâm nên Âu Dương Ngỗi ngày càng ngả theo ý định làm phản của Tiêu Bột, Bột và Lâm nảy sinh mâu thuẫn do sự kích động của Ngỗi.[351] Tuy nhiên, tình hình căng thẳng giữa Vương Lâm và Tiêu Bột đột nhiên tắt ngấm vì Vương Lâm phải vội quay về triều do các biến cố quan trọng trong cung đình.[350] Năm 557, Vương Lâm nổi dậy chống lại nhà Trần, ba năm sau Lâm bị Âu Dương Ngỗi đánh bại rồi phải trốn chạy lên vùng Đông Bắc, sau bị quân Bắc Tề bắt giết ở Thọ Dương.

  • Lưu Nguyên Yển (555)

Lưu Nguyên Yển vốn là thủ hạ của Vương Lâm, được Lâm tiến cử làm Thứ sử Giao Châu, bấy giờ thực quyền Giao Châu do Triệu Quang Phục nắm giữ nên chỉ ở Quảng Châu, sau đem quân trở về bắc tìm gặp Vương Lâm.

  • Trần Pháp Vũ (555 - 557)

Trần Pháp Vũ trước là Thái thú Cửu Đức, sau lập công đánh bại Tiêu Bột được Trần Bá Tiên tiến cử làm Thứ sử Giao Châu, tuy nhiên chưa bao giờ đặt chân sang vùng đất này.[348][349]

  • Viên Đàm Hoãn (557 - 560)

Viên Đàm Hoãn làm Thứ sử Giao Châu đời nhà Trần, trong thời gian Vương Lâm nổi loạn từng đem vàng bạc 500 lạng vàng gởi Ngỗi, dặn ông trả 100 lạng cho Hợp Phố thái thú Cung Kiều, 400 lạng giao cho con trai mình là Viên Trí Củ. Về sau, Ngỗi bị Tiêu Bột lấy hết tài sản, nhưng vẫn giữ lại được số vàng này. Đàm Hoãn mất rồi, ông làm đúng như lời dặn, người thời ấy không ai không khâm phục.[352]

  • Lan Khâm

Lan Khâm tự Hưu Minh, người Ngụy - Trung Xương, vốn là Thứ sử Hàng Châu, theo lệnh Lương Vũ Đế cùng Trần Bá Tiên sang Giao Châu dẹp loạn Lý Bí.[349] Khâm được thăng chức Tán kỵ thường thị, Tả vệ tướng quân, sau đó đổi ra làm Tán kỵ thường thị, An nam tướng quân, Quảng Châu thứ sử. Vừa đến nhiệm sở (Quảng Châu), Thứ sử tạm quyền là Nam An hầu Tiêu Mật sai nhà bếp bỏ thuốc vào thức ăn. Khâm trúng độc mà chết, Bá Tiên cho Âu Dương Nguy mang thi hài Khâm về Hàng Châu an táng.[353]

  • Âu Dương Ngỗi (560 - 563)

Âu Dương Ngỗi (có sách chép là Âu Dương Nguy) tự là Tĩnh Thế, người Lâm Tương, Trường Sa, Đàm Châu. Vốn làm phụ tá cho Trần Bá Tiên theo quân viễn chinh sang Giao Châu, nhưng do Lan Khâm chết dọc đường nên Âu Dương Ngỗi được phép đem thi thể Lan Khâm về Hàng Châu.[352] Sau đó, Âu Dương Ngỗi ở lại canh giữ Hàng Châu. Do theo Tiêu Bột chống lại Trần Vũ Đế mà bị bắt, vì có chút uy danh ở miền nam nên ít lâu sau Nguy được thả rồi bổ nhiệm làm Thứ Sử Hàng Châu kiêm Đô Đốc với quyền hành quân sự trên toàn bộ 19 châu bao gồm cả hai châu Quảng và Giao.[348]

  • Lan Dụ

Lan Dụ là em của Lan Khâm, nguyên là Thứ sử Cao Châu, từng rủ Âu Dương Ngỗi phản lại Trần Bá Tiên sau khi Lương Vũ Đế bị Hầu Cảnh sát hại nhưng Nguy không nghe, Dụ phát binh tấn công Hàng Châu bị quân tiếp ứng của Trần Bá Tiên đánh tan.[348][352]

  • Âu Dương Thịnh (563 - 567)

Âu Dương Thịnh là em Âu Dương Ngỗi, phò tá anh giữ yên Quảng Châu, khi Âu Dương Ngỗi mất lên thay anh làm Thứ sử Giao Châu.[352]

  • Âu Dương Hột (567 - 570)

Âu Dương Hột là con Âu Dương Ngỗi, được Trần Tuyên Đế phong chức Đô đốc, quản lãnh quân sự 19 châu gồm cả Giao Châu và Quảng Châu, oai vang toàn cõi Bách Việt hơn 10 năm.[352] Sau trong triều có kẻ nghi kị dèm pha, Trần đế ra lời chiếu vời về triều. Hột sợ, bèn theo Thứ sử Hồ Nam làm phản rồi bị giết chết.[207]

  • Nguyễn Trác (570 - 576)

Nguyễn Trác dẹp được Âu Dương Hột, được nhà Trần cử sang thay thế làm Thứ sử Giao Châu. Bấy giờ những người Lao man di ở Giao Chỉ thường hay tụ tập lại đi cướp phá và Nguyễn Trác được giao nhiệm vụ giải quyết việc này, lúc đó tất cả những sứ giả gửi xuống Giao Chỉ, từ đầu đến cuối, chỉ lo tích lũy của cải; riêng có Nguyễn Trác thì không làm như thế, và bỏ về tay không.[354] Năm 572, Nguyễn Trác mở cuộc viễn chinh xuống tận miền biên giới đã khiến Lâm Ấp và Phù Nam phải vội gửi sứ giả lên triều đình xin được giao hảo.[355]

  • Thái Ngung

Không rõ chức vụ gì, do phạm tội nên bị triều đình trục xuất xuống Giao Châu, được giao cho một quan hệ với các quyền lực địa phương.

  • Đại Hoàng

Đại Hoàng vốn là Thứ sử Ninh Châu, do lập công tháp tùng Nguyễn Trác nên được giao nhiều chức vụ quan trọng ở Giao Châu.[355]

  • Trần Khắc (572 - 574)

Trần Khắc làm Thứ sử Quảng Châu, được giao nhiệm vụ kiêm Đô đốc Giao Châu, phối hợp với Nguyễn Trác cai quản vùng này.[355]

  • Phượng Tần (574 - 575)

Phượng Tần là cháu của thân mẫu Trần Vũ Đế, được cử sang thay thế Trần Khắc làm Thứ sử Quảng Châu kiêm Đô đốc Giao Châu.

  • Trần Quân Cảo (576 - 578)

Trần Quân Cảo là nho sĩ, giữ chức Đô đốc Quảng Châu và Giao Châu thay cho Phượng Tần. Lúc đó Bộ lạc Di và những người Lao liên tục đánh lẫn nhau, Quân Cảo không thông thạo việc quân sự; nên ông dốc hết tâm lực vuốt ve xoa dịu họ và giảng giải phải trái để đem lại sự hài hoà trong dân chúng. Năm 578. Quân Cảo chết, th 48 tuổi, chỉ sau hai năm tại chức.

  • Dương Tấn (578 - 589)

Dưwng Tấn thay thế Trần Quân Cảo làm Đô đốc cả hai châu Giao và Ái đời Trần, được phong tước là Võ Khang quận công.[207]

  • Lý Hữu Vinh

Lý Hữu Vinh giữ chức Thứ sử Giao Châu không rõ từ năm nào, đến năm 583, Vinh gửi một số voi đã huấn luyện thuần thục sang triều cống nhà Trần.

Thời Tùy Đường Ngũ Đại (589 - 938)

Năm 589, nhà Tuỳ ở phương Bắc thống nhất được Trung Quốc, chấm dứt thời kì hỗn chiến Nam Bắc Triều. Năm 583, Tùy Văn Đế bỏ quận lập châu. Việt Nam khi đó bao gồm những châu: Giao (vùng đồng bằng Bắc Bộ), Hưng châu (năm 598 đổi là Phong châu, tức là vùng Sơn Tây, Phú Thọ), Hoàng (năm 598 đổi là Ngọc châu, tức là bờ biển Bắc Bộ thuộc vịnh Hạ Long), Ái (tương đương Thanh Hóa), Đức (năm 598 đổi là Hoan châu, tương đương tỉnh Nghệ An), Lợi (năm 598 đổi là Trí châu, tương đương tỉnh Hà Tĩnh)[356]. Năm 602, sau khi tiêu diệt nước Dã Năng của Lý Phật Tử, nhà Tùy gộp hết các huyện của quận Giao Chỉ cũ làm 2 huyện Giao Chỉ và Long Uyên, lệ thuộc vào Giao châu. Các huyện thuộc quận Giao chỉ thời thuộc Tấn ở phía bắc và phía nam sông Đuống trên tả ngạn sông Hồng ở phía hạ lưu Hà Nội, miền sông Cầu, sông Thương, sông Thái Bình. Chủ trương của nhà Tùy là thiết lập chế độ trung ương tập quyền, không phong cho tông thất và công thần, chỉ chuyên dùng quan lại cai trị. Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy, khôi phục lại chế độ các châu nhỏ thời Nam Bắc triều. Năm 622, nhà Đường lập Giao châu đô hộ phủ, người đứng đầu cơ quan này gọi tổng quản. Năm 624, Đường Cao Tổ đổi các Phủ đô hộ thành Phủ Đô đốc. Phủ Đô hộ An Nam thành Phủ đô đốc An Nam. Năm 679, Đường Cao Tông lại đổi về tên cũ, đổi quận Giao Chỉ trở lại thành châu Giao, đặt ra Phủ Đô hộ Giao Châu. Bấy giờ, vùng Lĩnh Nam có 5 đô hộ phủ, cai quản châu Giao, châu Quảng, châu Quế, châu Dung, châu Ung, gọi chung là Lĩnh Nam ngũ quản (tức Lĩnh Nam đạo). Năm 678, nhà Đường lập ra An Nam đô hộ phủ, chức quan đứng đầu Phủ Đô hộ An Nam gọi là Kinh lược sứ, sử Trung Quốc quen gọi Giao châu là An Nam kể từ đó. Bấy giờ, An Nam được phân thành 12 châu ở vùng đồng bằng và trung du, 41 châu ki mi (châu ràng buộc lỏng lẻo) ở vùng rừng núi.[357] Năm 757, Đường Túc Tông đổi An Nam đô hộ phủ thành Trấn Nam đô hộ phủ, chín năm sau (766) lại đổi về tên cũ. Năm 863, Nam Chiếu chiếm được An Nam đô hộ phủ, tướng Sái Tập nhà Đường tử trận, Cao Biền được điều sang phải mất 3 năm mới hoàn toàn đánh dẹp được Nam Chiếu. Vì lý do này, nhà Đường bãi bỏ Phủ Đô hộ An Nam và lập Hành Giao Châu thay thế đóng tại nơi là Quảng Tây ngày nay. Nhưng chưa đầy 1 tháng thì cho tái lập Phủ Đô hộ An Nam nằm trong Hành Giao Châu. Để khôi phục và củng cố quyền hành tại Việt Nam, Đường Ý Tông thăng An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, từ đó người đứng đầu Tĩnh Hải quân được gọi là Tiết độ sứ. Tại các châu, người đứng đầu gọi là Thứ sử, dưới các huyện thì người đứng đầu là Huyện lệnh.

  • Dương Hưu Phố (589 - 602)

Dương Hựu Phố tự là Vệ Khanh, trong thời kỳ nhà Trấn mất nước, làm chức Đô đốc Giao Châu, sau hàng nhà Tuỳ vẫn được giữ nguyên địa vị[207]

  • Lưu Phương (602-605)

Lưu Phương người huyện Trường An, quận Kinh Triệu, vốn là Thứ sử Qua Châu, được Tả bộc xạ Dương Tố tiến cử.[358] Tùy Văn Đế dùng Phương làm Hành quân tổng quản đạo Giao Châu, đem binh sang đánh dẹp Lý Phật Tử.[345] Khi kéo quân đến Phong Châu, Phương sai người đem điều họa phúc để dụ trước, Phật Tử sợ xin hàng, Phương bắt Phật Tử đem về kinh sư.[346] Năm 605, Tuỳ Dạng Đế cho Phương làm Hành quân tổng quản đạo Hoan Châu, tiến hành chinh phạt nước Lâm Ấp. Phương chỉ huy quân sĩ đánh đến tận kinh thành nước này, tước lấy rất nhiều của cải vật chất quý báu.[347] Tuy nhiên do binh sĩ bị bệnh dịch chết quá nửa nên sau đó buộc phải lui binh, Phương cũng bị ốm chết dọc đường về.[359] Vua lấy làm thương tiếc bèn hạ chiếu khen ngợi, truy tặng Thượng trụ quốc - Lô quốc công, con là Lưu Thông Nhân kế tục.

  • Kính Đức Lượng

Kính Đức Lượng giữ chức Độ chi thị lang, được Tuỳ Văn Đế dùng làm Trưởng sử thống lĩnh quân sĩ 27 doanh cùng Lưu Phương sang đánh Lý Phật Tử ở Giao Châu.[359] Khi quân đến Doãn Châu thì Lượng bị bệnh nặng không đi được, ở lại châu quán.[358] Trong lúc chia tay, Phương xót cảnh Lượng ốm nặng mà khóc lóc nức nở, cảm động cả mọi người, không rõ kết cục thế nào.

  • Tống Toản

Tống Toản giữ chức Doanh chủ trong quân của Lưu Phương, lập nhiều công trạng trong việc đánh bại quân của Lý Phật Tử, bình định Dã Năng quốc.[358][359]

  • Hà Quý

Hà Quý giữ chức Doanh chủ trong quân của Lưu Phương, lập nhiều công trạng trong việc đánh bại quân của Lý Phật Tử, bình định Dã Năng quốc.[358][359]

  • Nghiêm Nguyện

Nghiêm Nguyện giữ chức Doanh chủ trong quân của Lưu Phương, lập nhiều công trạng trong việc đánh bại quân của Lý Phật Tử, bình định Dã Năng quốc.[358][359]

  • Lý Vựng

Lý Vựng là Thứ sử Hoan Châu, cùng Tần Hùng đem quân bộ kị xuất phát từ huyện Việt Thường tiến đánh sang Lâm Ấp, hội quân với Lưu Phương để công phá nước này, không rõ kết cục thế nào.

  • Tần Hùng

Tần Hùng giữ chức Thượng khai phủ, được vua Tuỳ hạ lệnh phối hợp với Thứ sử Hoan Châu Tần Hùng cùng đem quân tới Lâm Ấp,[358][359] không thấy sử sách nhắc tới hành trạng của nhân vật này sau chiến dịch.

  • Trương Tốn

Trương Tốn giữ chức Đại tướng quân, đem thủy quân xuất phát từ quận Tỷ Cảnh (huyện của nhà Hán, thuộc quận Nhật Nam; nhà Tùy đặt quận Tỷ Cảnh) theo Lưu Phương từ Giao Châu đánh sang Lâm Ấp.[358][359][360]

  • Lý Cương

Lý Cương giữ chức Thượng thư hữu thừa, được Tuỳ Dạng Đế phong làm Tư mã đi kinh lược nước Lâm Ấp.[358][359] Theo Lưu Phương cùng Trương Tốn đem thuyền tới quận Tỷ Cảnh, không rõ về sau thế nào.

  • Lý (không rõ tên) (605 - 611)
  • Khâu Hòa

Khâu Hòa là người huyện Lạc Dương, phủ Hà Nam. Tùy Dạng Đế thấy Khâu Hòa có tiếng là người trị chính thuần lương, phái ông đi nhậm chức Giao Chỉ thái thú. Nước Lâm Ấp nhiều lần tặng ngọc trai, văn tê, kim bảo khiến Khâu Hòa trở nên phú quý ngang hàng với bậc vương giả.[361] Lương Đế Tiêu Tiển nghe tin bèn lệnh cho Nịnh Trường Quân xuất binh tiến công Giao Chỉ, Khâu Hòa phái trưởng sử Cao Sĩ Liêm đánh đuổi quân của Nịnh ra khỏi quận.[346] Sau khi Khâu Hòa biết triều Tùy đã mất, lập tức dâng biểu quy phục Tiêu Tiển, sau khi nhà Lương mất thì theo về với nhà Đường.[362]

  • Tiêu Tiển (617-621)

Tiêu Tiển là cháu bốn đời Tuyên Đế nhà Lương, năm Đại Nghiệp thứ 13 (617) đời Dượng Đế nhà Tùy, Tiêu Tiển khởi binh tự xưng là Lương vương; đến đời Cung Đế năm Nghĩa Ninh thứ hai (618), tự xưng đế, chiếm địa vực phía đông từ Cửu Giang, phía tây đến Tam Hiệp, phía nam đến tận Giao Chỉ, phía bắc tới Hán Xuyên. Về sau, Tiêu Tiển đầu hàng nhà Đường.[346]

  • Nịnh Trường Chân

Nịnh Trường Chân là con Nịnh Mãnh Lực, thứ sử Khâm Châu. Khi Mãnh Lực chết, Trường Chân thay cha làm thứ sử. Trước đây Trường Chân từng theo Lưu Phương sang Giao Châu để đánh nước Lâm Ấp lập nhiều công trạng, sau khi nhà Tuỳ mất về với nhà Lương. Vua Lương là Tiêu Tiển sai Trường Chân tiến đánh Giao Châu, tuy nhiên bị Khâu Hòa đánh bại. Sau Trường Chân hàng nhà Đường, từ đó mấy châu Giao, Ái mới giao thông được với nhau.[346]

  • Cao Kiệm

Cao Kiệm tự Sĩ Liêm, người đất Tu thuộc Bột Hải, cháu nội của Thanh Hà Vương Cao Nhạc nước Bắc Tề.[166] Khoảng năm Nhân Thọ (601-604) nhà Tuỳ đậu văn tài giáp khoa, được bổ làm trị lễ lang, sau vì can cữu, bị giáng chức làm chủ bạ Chu Diên, Khâu Hòa cử lên làm Tư Pháp Thư Tá.[360] Khi Lương Đế Tiêu Tiển phái Nịnh Trường Chân sang Giao Châu đã hiến kế cho Khâu Hoà chống cự thắng lợi nên được thăng chức Hành Quân Tư Mã, sau cùng với Khâu Hòa cùng ra hàng nhà Đường, làm quan đến chức hữu bộc xạ.[346]

  • Lý Đạo Hựu

Lý Đạo Hựu giữ chức Khâm sai đại thần, được Đường Thái Tông phái sang Giao Châu, mang cờ tiết sắc phong cho Khâu Hòa chức Đại tổng quản, tước Đàm quốc công.[360][362]

  • Lý Đại Lượng

Lý Đại Lượng đầu niên hiệu Trinh Quán đời Đường Thái Tông làm Đô đốc Giao Châu.[363]

  • Lý Thọ

Lý Thọ là tôn thất nhà Đường, làm Đô đốc Giao Châu, vì tham lam bị tội.[360][363]

  • Lư Tổ Thượng (627)

Lư Tổ Thượng tự Quý Lương, người Quang Châu. Lý Thọ bị tội, Đường Thái Tông cho đòi Lư Tổ Thượng đến bảo: "Giao Châu là một vùng biên giới rộng lớn, cần phải có quan chức tốt trông coi nhưng cho đến bây giờ chưa có một đô đốc nào làm đầy đủ nhiệm vụ cả. Xét thấy ngươi có khả năng, vậy hãy đi và phòng thủ Giao Châu cho trẫm. Không được viện lẽ xa xôi mà từ chối".[364] Tổ Thượng viện cớ bệnh hoạn để từ chối và không chịu xuống miền Nam nhậm chức mới.[360] Sau nhiều lần cử Đỗ Như Hối khuyến dụ không được, vua bảo anh vợ ông là Chu Phạm đến khuyên giải.[363] Tổ Thượng từ chối: "… miền Nam có nhiều bệnh sốt rét hoành hành; nếu đệ đi đến đó thì sẽ chẳng có ngày về". Vua bèn khiến chém ngay trước triều đường, về sau, vua hối hận và cho phục chức như cũ.[365]

  • Lý Đạo Hưng (635 - 636)

Lý Đạo Hưng là tôn thất nhà Đường, được phong làm Quảng Ninh quận vương, sau vì có lỗi nên giáng xuống làm Huyện công. Năm 635, Đường Thái Tông cử Hưng xuống làm Đô đốc Giao Châu và ông này chết vì bệnh trong lúc đương làm quan khoảng một năm sau.[360][363]

  • Lý Đạo Ngạn (637 - 640)

Lý Đạo Ngạn thời Trinh Quán bị đổi làm Thứ sử Giao Châu. Rợ Lèo (sơn liêu) làm phản ở châu Minh, Đạo Ngạn dẹp yên. Không lâu sau, châu Minh sáp nhập vào châu Hoan.[363]

  • Lý Giám

Lý Giám là con của Ba Vương Thần Phù, làm Thứ sử Giao Châu đời Đường.[363]

  • Liễu Sở Hiền

Liễu Sở Hiền người Bồ châu, thời Trinh Quán (627-649), làm Đô đốc Giao châu và Quế châu.[363]

  • Đỗ Chính Luân

Đỗ Chính Luân người châu Tương, Đường Thái Tông biết tiếng, cho làm chức Trung thư thị lang, Thái tử tả thứ tử. Vì Thái tử Thừa Càn bị truất, nên biếm Chính Luân làm Đô đốc Giao châu.[363]

  • Đậu Đức Minh

Đậu Đức Minh làm Thứ sử Ái châu đời Đường, chưa rõ niên đại nào.[363]

  • Nịnh Đạt

Nịnh Đạt thời Chu Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng Đế (685-705) làm Thứ sử Ái Châu.[363]

  • Chử Toại Lương

Chủ Toại Lương tự Đăng Thiện, người Tiền Đường, con của Chử Lượng, làm chức Trung thư lệnh, cuối thời Đường Thái Tông đổi làm Đô đốc Đàm Châu và Quế Châu.[366] Sau đó, Hứa Kính Tông và Lý Nghĩa Phủ vu tấu Toại Lương làm phản.[367] Vũ Hậu giận, biếm làm Thứ sử Ái Châu, được hơn một năm thì mất.[363] Đến khi Cao Biền bình định An Nam, mới tấu xin đưa di hài về Dương Địch.

  • Sài Triết Uy

Thời Đường Cao Tông, Sài Chiết Uy bị liên luỵ vì em là Sài Lệnh Vũ theo Phòng Di Ái làm phản, phải đày ra Thiệu Châu. Sau này lập một số công trạng nên được tha, cho làm Đô đốc Giao Châu.[363]

  • Lang Dư Khánh

Lang Dư Khánh làm quan thanh liêm, nhưng tính khắc bạc, giữ chức Ngự sử Trung Thừa, sau vì bị lỗi, giáng làm Thứ sử Giao Châu.[363]

  • Lưu Diên Hựu (684 - 687)

Lưu Diên Hựu làm An Nam đô đốc, theo luật lệ nhà Đường thì dân quê hằng năm phải nộp nửa thuế. Diên Hựu bắt nộp toàn phần, do đó dân chúng oán và mưu phản. Diên Hựu phát hiện ra bèn giết người cầm đầu là Lý Tự Tiên, dư đảng của Lý Tự Tiên là Đinh Kiến nổi dậy đánh bại rồi tiêu diệt Diên Hựu, chiếm cứ Giao Châu.[363]

  • Phùng Tử Du

Phùng Tử Du là tướng trấn thủ Quảng Châu đời Đường, khi Lưu Diên Hựu bị quân của Đinh Kiến vây hãm đã phái sứ giả đến Quảng Châu cầu cứu, tuy nhận lời nhưng Tử Du lại không hành động vì trước đây có sự ganh ghét với Diêu Hựu, vì thế mà Đinh Kiến phá được thành Tống Bình.[360]

  • Tào Huyền Tĩnh

Tào Huyền Tĩnh (có thuyết ghi là Tào Trực Tĩnh), giữ chức Tư mã Quế Châu, được vua Đường Duệ Tông hạ lệnh đem binh trấn áp Đinh Kiến,[363] Tĩnh tổ chức tấn công tổng lực bất ngờ khiến Đinh Kiến không kịp xoay xở nên bại mà bị chém chết.[360]

  • Lưu Hựu

Lưu Hựu làm An Nam đô hộ đời nhà Đường, nhà giàu có lớn, mỗi lần nuôi gà lợn, có chết con nào, bắt đày tớ bồi thường gấp đôi và chẳng bao giờ ăn một món gì ngon.[363]

  • Dương Tư Húc

Dương Tư Húc, có thuyết nói là Dương Tư Miễn, giữ chức Tả giam môn Vệ tướng quân,[368] được lệnh vua Đường Huyền Tông cùng quan đô hộ An Nam là Nguyên Sở Khánh đem binh sang đánh dẹp mai Thúc Loan.[360][363][369]

  • Quang Sở Khách (722 - 724)

Quang Sở Khánh, có sách ghi là Nguyên Sở Khánh, người Giang Lăng.[360] Đầu niên hiệu Khai Nguyên (713) đổi ra làm An Nam đô hộ, cùng Dương Tư Húc dẹp yên loạn Mai Thúc Loan[363]

  • Tống Chi Đễ

Tống Chi Đễ là em của Tống Chi Vấn, từng làm Kiếm Nam Tiết độ sứ và Thái Nguyên doãn, bị tội đày ra quận Chu Diên. Nhân gặp loạn Mai Thúc Loan, Đễ mộ được 8 người tráng sĩ mặc áo giáp dày, kéo đến tận chân thành mà hô to rằng: "Hễ bọn người Lèo hành động tức thì giết chết"; 700 quân đều phục xuống không dám đứng dậy, nhờ đó góp phần bình định được phản quân.[370] Vua Đường liền xá tội cho Đễ, bổ nhiệm chức Giao Châu tổng quản[363]

  • Đỗ Minh Cừ

Đỗ Minh Cừ người Dương, cuối đời Cảnh Long nhà Đường (709), làm quan Uý quận Tế Nguyên. Một hôm, Cừ nằm chiêm bao thấy đi vào một phủ đường, gặp một người mặc áo xanh, vái chào rất cung kính và nói rằng: "Ông sẽ làm An Nam đô hộ, tôi là dân An Nam, nên đến đây chào mừng trước, xin ông hãy giữ gìn quí thể". Sau quả nhiên, Minh Cừ được Đường Trung Tông cử làm An Nam đô hộ.[363]

  • Hà Lý Quang

Hà Lý Quang người Quế Châu, năm Thiên Bửu thứ 10 (751) làm An Nam đô hộ, đem quân đánh Vân Nam, thu phục thành An Ninh, dựng lại trụ đồng của Mã Viện để định cương giới.[363]

  • Trương Thuận

Trương Thuận giữ chức An Nam đô hộ thời Đường Túc Tông.

  • Trương Bá Nghi (767 - 777)

Trương Bá Nghi là con Trương Thuận, làm An Nam Kinh lược sứ đời nhà Đường, bắt đầu đắp thành Đại La.[363]

  • Khang Khiêm

Khang Khiêm vốn là lái buôn ở phương Bắc, làm An Nam đô hộ.[363]

  • Triều Hoành (761 - 767)

Triều Hoành, có sách ghi là Trào Hành hoặc Tiều Hành người Nhật Bản, tự Cự Khanh, sinh ở Yamato thuộc Đại Hòa quốc, là hậu duệ của dòng dõi quý tộc có nguồn gốc từ Thiên hoàng Kōgen.[371] Trong khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-741) đem hóa phẩm đến triều kiến, hâm mộ phong hóa Trung Hoa, nhân đó lưu lại, đổi tên là Triều Hoành, nhiều lần sang sứ Trung Quốc.[372] Năm Vĩnh Thái (765) đời vua Đường Đại Tông, Triều Hoành được cử làm An Nam đô hộ.[373] Thời ấy có quân Mán xâm phạm cảnh giới hai châu Đức Hoá và Long Vũ, vua xuống chiếu khiến Triều Hoành qua dẹp yên.[363]

  • Phụ Lương Giao

Phụ Lương Giao năm Kiến Trung thứ 3 đời Đường Đức Tông (782) làm An Nam đô hộ. Lúc ấy, Tư Mã Diễn Châu là Lý Mạnh Thu và Thứ Sử Phong Châu là Lý Bỉ Ngạn làm phản, tự xưng An Nam Tiết độ sứ, đều bị Lương Giao bắt chém.[363]

  • Lý Mạnh Thu

Lý Mạnh Thu vốn giữ chức Tư Mã ở Diễn Châu, cùng Thứ sử Phong Châu là Lý Bỉ Ngạn tạo phản, tự xưng là An Nam Tiết độ sứ, bị Phụ Lương Giao dẹp yên.[363]

  • Lý Bỉ Ngạn

Lý Bỉ Ngạn nguyên là Thứ sử Phong Châu, liên minh với Diễn Châu Tư Mã là Lý Mạnh Thu tạo phản, tự xưng là An Nam Tiết độ sứ, bị Phụ Lương Giao dẹp yên.[363]

  • Cao Chính Bình (790 - 791)

Cao Chính Bình vốn là Hiệu uý châu Vũ Định, do lập công giúp Kinh lược sứ Trương Bá Nghi đánh bại quân Chà Và ở Chu Diên nên được thăng chức An Nam kinh lược sứ[363], do sưu cao thuế nặng nên người hào phú ở Phong châu là Phùng Hưng nổi lên đem quân vây hãm phủ. Chính Bình do lâu ngày không phá được nên lo phẫn mà sinh bệnh ở lưng mà chết.[370]

  • Trương Ứng

Trương Ứng làm An Nam kinh lược sứ, chết đương lúc tại chức. Kẻ tá nhị là Lý Nguyên Độ, dùng binh lực uy hiếp châu huyện làm phản. Tướng nhà Đường là Lý Phục dụ bắt được Nguyên Độ, cõi Nam trở lại yên lặng.[363]

  • Lý Nguyên Độ

Lý Nguyên Độ là kẻ tá nhị dưới quyền An Nam kinh lược sứ Trương Ứng, sau khi Trương Ứng chết thì nổi dậy tạo phản, kết cục bị tướng nhà Đường là Lý Phục đánh tan.[363]

  • Lý Phục

Lý Phục là võ tướng, được vua Đường cử sang An Nam dẹp loạn Lý Nguyên Độ, vỗ yên dân chúng[363] được phong làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam, Phục dạy dân An Nam làm nghề nung ngói, người Nam biết làm ngói là khởi nguồn từ đây[370]

  • Khúc Lãm
  • Ô Sùng Phúc (777 - 787)
  • Trương Đình (787 - 789)
  • Bàng Phục (789 - 790)
  • Triệu Xương (792 - 802) và (804 - 806)
  • Bùi Thái (802 - 803)
  • Trương Chu (806 - 810)
  • Mã Tống (810 - 813)
  • Trương Lệ (813)
  • Bùi Hành Lập (813 - 817)
  • Lý Tượng Cổ (818 - 819)
  • Dương Thanh (819 - 820)
  • Quế Trọng Vũ (820)
  • Bùi Hành Lập (822)
  • Vương Thừa Điển (822)
  • Lý Nguyên Hỷ (822 - 826)
  • Hàn Ước (827 - 828)
  • Trịnh Xước (831 - 832)
  • Lưu Mân (833)
  • Hàn Hy (834 - 836)
  • Điền Tảo (835)
  • Mã Thực (836 - 840)
  • Vũ Hồn (841 - 843)
  • Bùi Nguyên Dụ (846 - 848)
  • Điền Tại Hựu (849 - 850)
  • Thôi Cảnh (851 - 852)
  • Lý Trác (853 - 855)
  • Lý Hoàng Phủ (856 - 857)
  • Tống Nhai (857)
  • Vương Thức (858 - 859)
  • Lý Hộ (859 - 860)
  • Vương Khoan (861)
  • Sái Tập (862 - 863)
  • Tống Nhung (863)
  • Cao Biền (864 - 868)
  • Cao Tầm (868 - 878)
  • Tăng Cổn (878 - 880)
  • Cao Mậu Khanh (882 - 884)
  • Tạ Triệu (884 - ?)
  • An Hữu Quyền (897 - 900)
  • Chu Toàn Dục (900 - 905)
  • Độc Cô Tổn (905)
  • Khúc Thừa Dụ (905 - 907)
  • Lưu Ẩn (908 - 911)
  • Khúc Hạo (907 - 917)
  • Lưu Cung (911 - 917)
  • Tiền Nguyên Hựu
  • Khúc Thừa Mỹ (917 - 923)
  • Lý Khắc Chính
  • Lý Tiến (923 - 931) hoặc (930 -931)

Lý Tiến xuất thân không rõ, theo Tiết độ sứ Lưu Nghiễm (sau là Lưu Nham) làm tướng và quan lại cho Thanh hải quân, trở thành một trong những công thần khai quốc của nhà Nam Hán.[374] Ông cùng Lý Khắc Chính vâng lệnh Nam Hán Cao Tổ sang bình định Tĩnh hải quân, đánh bắt Khúc Thừa Mỹ về giam ở Phiên Ngung rồi trực tiếp cai trị vùng đất này.[375][376] Đầu năm 931, ông và quân Nam Hán đồn trú tại địa phương bất ngờ bị quân của Dương Đình Nghệ đánh bại phải bỏ trốn về nước, sau bị vua Nam Hán bắt giết vì tội hèn nhát.[377]

  • Trần Bảo (931)
  • Dương Đình Nghệ (931 - 937)
  • Kiều Công Tiễn (938)
  • Lưu Hoằng Tháo (937 - 938)
Tranh ghép đá mô phỏng trận Bạch Đằng 938

Vạn Vương Lưu Hoằng Tháo là hoàng tử thứ 9 của Nam Hán Cao Tổ, khi Kiều Công Tiễn bị Ngô Quyền đem quân đánh dẹp đã cầu cứu nhà Nam Hán, Nam Hán Cao Tổ lập tức cải phong Lưu Hoằng Tháo làm Giao Vương dẫn binh tiến sang Tĩnh Hải quân tiếp ứng. Tuy nhiên, con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền đã nhanh chóng diệt được họ Kiều rồi bố trí trận địa cọc trên sông Bạch Đằng mai phục sẵn, quân Nam Hán bị đánh bại hoàn toàn, Lưu Hoằng Tháo bị trúng bẫy tử trận. Ngô Quyền tự xưng vương, chính thức chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.[378]

  • Tiền Hoằng Soạn

Thời Minh (1406 - 1427)

Tướng lĩnh và quan lại người Hán

Họ tênTại vịChức vụLý do mãn nhiệm
Trương Phụ
Mộc Thạnh
Lý Bân
Vương Thông
Trần Trí
Sơn Thọ
Lý An
Phương Chính
Hoàng Phúc
Liễu Thăngtử trận[379]
Mã Kỳ
Nguyễn Sao
Tạ Phượng
Hoàng Thànhtướng tiền phongbị chém chết[380]
Phùng Quýtử trận[381]
Trần Hiệptử trận[382]
Sư Hựu
Trần Trungtử trận[383]
Chu Kiệt
Ngũ Vântử trận[384]
Trương Hùng
Nhậm Năng
Vi Lượng
Thái Phúchàng quân Lam Sơn[385]
Mã Anh
Vương An Lão
Lương Minh
Lý Khánh
Thôi Tụtử trận[386]
Tôn Tụ
Cố Hưng Tổ
Từ Hanh
Đàm Trung
Lý Lượng
Lưu Thanh
Dặc Khiêm
Hà Trung
Cao Tường
Hoa Anh
Trương Lân
Kim Dận
Lý Nhiệmtự sát[387]
Cố Phúc
Phùng Trí
Lưu Thuận

Tướng lĩnh và quan lại người Việt

Họ tênTại vịChức vụLý do mãn nhiệm
Nguyễn Huân
Mạc Thúy
Đặng Nguyên
Nguyễn Như Khanh
Mạc Địch
Mạc Viễn
Lương Nhữ Hốt
Trần Phong
Đỗ Duy Trung
Phan Liêu
Lộ Văn Luật
Cầm Bành[388]tri phủ Nghệ An[380][389]tử trận[390][391][392]
Cầm Quý[393]tri phủ Ngọc Ma[380]theo hàng quân Lam Sơn
Đỗ Phú
Đào Quý Dung
Trần Đinh
Cầm Lạn

Tướng lĩnh Ai Lao

Họ tênTại vịChức vụLý do mãn nhiệm
Mãn Sát[394]1421Tù trưởng Ai Lao[380]bị đánh bại

Danh sách tướng lĩnh tham chiến các thời: Tống - Nguyên - Thanh

Nhà Tống (980-981) và (1075-1077)

Tướng lĩnh nhà Tống:

  • Hầu Nhân Bảo

Hầu Nhân Bảo người Bình Dao - Phần Châu, con của Thái sư Hầu Ích, công cán ở Ung Châu suốt chín năm. Năm 980, nhân việc Giao Chỉ quận vương Đinh Bộ Lĩnh bị hành thích, Nhân Bảo dâng Thủ Giao Châu Sách (取交州策 - Kế sách lấy Giao Châu) và dâng thư xin về tận cửa khuyết để tâu vua tình hình có thể lấy được Giao Châu.[363] Tuy nhiên, Tống Thái Tông lại nghe theo lời bàn của Lư Đa Tốn, không gọi Nhân Bảo về cửa khuyết, mà để lại ở thành Ung Châu, chuẩn bị binh mã sang đánh Lê Hoàn, phong làm Giao Châu thủy lục kế độ chuyển vận sứ, thành lập Giao Châu hành doanh.[395] Khi xuất quân sang Giao Châu, ban đầu Hầu Nhân Bảo đắc thế, sau bị Lê Hoàn đánh bại, bị giết cùng thủy quân trên sông, Tống Thái Tông truy tặng chức Công bộ thị lang.[396]

  • Tôn Toàn Hưng
  • Lưu Trừng
  • Trần Khâm Tộ
  • Triệu Phụng Huân
  • Quách Quân Biện
  • Giả Thực
  • Cận Thần
  • Vương Soạn
  • Chu Vị
  • Thẩm Khởi
  • Lưu Di
  • Tô Giam

Tô Giam (có tài liệu phiên âm là Tô Giám) tự Tuyên Phủ, người huyện Tấn Giang, Tuyền Châu. Giam là Tri châu Ưng châu, khi bị quân Giao Chỉ vây hãm đã cho người đến Quảng Tây cầu cứu Đô giam Trương Thủ Tiết. Tuy nhiên quân của Trương Thủ Tiết bị quân Giao Chỉ tiêu diệt toàn bộ, Giám giữ thành cố thủ không chịu đầu hàng. Quân của Lý Thường Kiệt đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên thành, thành bèn bị hạ.[397] Giám cho gia thuộc 36 người chết trước, chôn xác vào hố, rồi châm lửa tự đốt chết. Giam tuyển dũng sĩ đẩy thuyền ra đánh trả, giết được 2 tướng của quân Nam. Người trong thành cảm ân nghĩa của Giám, không một người nào chịu hàng, giết hết hơn 5 vạn 8 nghìn người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 10 vạn, quân Giao Chỉ bắt sống người ba châu ấy đem về.[398] Vua Tống truy tặng Giám là Phụng quốc quân tiết độ sứ, thụy là Trung Dũng, cho một khu nhà lớn ở kinh thành, 10 khoảnh ruộng tốt cho thân tộc 7 người làm quan, cho con là Nguyên chức Cáp môn chi hậu.[399]

  • Tô Tử Nguyên

Tô Tử Nguyên là con trưởng của Tô Giam, giữ chức Quế Châu tư hộ, nhân việc công đem theo vợ con đến thăm cha, muốn trở về thì địch đến. Giam nghĩ rằng khó lòng giải thích cặn kẽ, ắt bị hiểu lầm quan giữ thành lại đưa gia đình ra khỏi thành, bèn sai một mình Tử Nguyên ra đi, giữ vợ con của anh ta lại. Sau chiến tranh, Nguyên được phong chức Tây đầu cung phụng quan, Các môn chi hậu, sau đổi thụ phong Điện trung thừa, Thông phán Ung Châu[397]

  • Tô Tử Minh

Tô Tử Minh là con thứ Tô Giam, cùng cha tử thủ thành Ưng Châu[397]

  • Tô Tử Chính

Tô Tử Chính là con út Tô Giam, cùng cha tử thủ thành Ưng Châu[397]

  • Tô Quảng Uyên

Tô Quảng Uyên là con trưởng Tô Tử Nguyên, cháu nội Tô Giam, cùng ông nội và 2 chú tử thủ thành Ưng Châu[397]

  • Tô Trực Ôn

Tô Trực Ôn là con thứ Tô Tử Nguyên, cháu nội Tô Giam, cùng ông nội và 2 chú tử thủ thành Ưng Châu[397]

  • Trương Thủ Tiết

Trương Thủ Tiết nguyên giữ chức Đô giám Quảng Tây, khi quân của Lý Thường Kiệt từ Giao Chỉ kéo sang tập kích các châu Khâm, Liêm, Ưng đã đưa quân sang tiếp ứng cho các châu này. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn phá tan được, chém Thủ Tiết tại trận.[399]

  • Tống Cầu
  • Nguyên Dụ
  • Trương Biện
  • Hứa Dự
  • Vương Trấn
  • Lý Hiến
  • Quách Quỳ

Quách Quỳ tự Trọng Thông, tổ tiên là người gốc Cự Lộc, sau di cư tới Lạc Dương, con trai thứ của Quách Bân, một danh tướng của Bắc Tống. Năm Hi Ninh thứ 9 đời Tống Thần Tông giữ chức Chiêu thảo sứ cùng Triệu Tiết đem 10 vạn quân sang đánh Giao Chỉ tới sông Như Nguyệt, nhưng không thể tiến quân xa hơn nữa và cuối cùng phải rút về.[399] Ông bị giáng chức xuống thành tả vệ tướng quân và sau đó bị buộc hưu trí, an cư tại gia 10 năm.[400]

  • Triệu Tiết

Triệu Tiết tự Công Tài, người Y Chánh, Cung Châu, từng làm Chiêu thảo phó sứ, theo Chiêu thảo sứ Quách Quỳ sang đánh Giao Chỉ.[401] Năm 1076, có chiếu lấy Tiết làm An Nam hành doanh kinh lược, Chiêu thảo sứ, tổng thống 9 tướng quân đi đánh, lấy trung quan Lý Hiến làm phó. Tiết cùng Hiến nghị luận không hợp, bèn xin bãi Hiến. Tống Thần Tông hỏi ai có thể thay thế, Tiết cho rằng Quách Quỳ lão luyện việc biên thùy, tự nguyện làm trợ thủ; vì thế triều đình lấy Quỳ làm Tuyên phủ sứ, Tiết làm phó.[402] Sau nhiều tháng cầm cự, quân Tống không thể vượt sông, chủ tướng Quách Quỳ chấp nhận giảng hòa, đưa quân trở về. Nhờ Quỳ nhận tội tự ý nghị hòa và chịu biếm chức, Tiết chỉ bị kết tội không lập tức dẹp giặc, giáng làm Trực Long Đồ các, Tri Quế Châu. Sau đó được trả lại hư hàm Thiên Chương các đãi chế, chức Quyền Tam tư sứ.[399]

  • Dương Tiến Tùng
  • Tư Kỷ
  • Thế Cư
  • Yên Đạt
  • Nhâm Khởi
  • Khúc Trân

Tướng lĩnh người Việt:

  • Lưu Ưng Kỷ
  • Nùng Thiện Mỹ

Đế quốc Mông Cổ (1258) và nhà Nguyên (1282-1288)

Tướng lĩnh quan lại nhà Nguyên:

  • Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai)
  • A Truật (Aju)
  • Triệt Triệt Đô (Cacakdu)
  • Hoài Đô (Quaidu)
  • Triệu Ngột Lương
  • Hồ Lã Trừng
  • Quỳ Hợp Thai
  • Quỳ Thủ Soạn
  • Bột Nhan Thiết Mộc Nhi (Buyan Temur)
  • Sài Thung
  • Lý Chấn
  • Hốt Kha Nhi (Qugar)
  • Toa Đô (Sogetu)
  • Thoát Hoan (Toghan)
  • A Lạt Hải Nha (Ariq Qaya)
  • Lý Hằng
  • Khoan Triệt (Koncak)
  • Bột La Hợp Đáp Nhĩ (Bolqadar)
  • Sát Tháp Nhi Đài (Satartai)
  • Mãng Cổ Đái (Mangqudai)
  • Nạp Hải (Naqai)
  • Lý Bang Hiến
  • Tôn Hựu
  • Tôn Đức Lâm
  • Lưu Thế Anh
  • Lưu Khuê
  • Nghê Nhuận
  • Lý Quán
  • Trâu Tôn
  • Đường Cổ Đãi (Tangutai)
  • Nạp Tốc Lạt Đinh (Nasr al-Din)
  • Ô Mã Nhi (Omar al-Din)
  • Áo Lỗ Xích (Ayuruychi)
  • Phàn Tiếp
  • Tích Lệ Cơ
  • Diệc Hắc Mê Thất
  • A Lý Quy Thuận (Ariq Qusun)
  • A Bát Xích
  • A Lý
  • Trình Bằng Phi
  • Ái Lỗ (Aruq)
  • Trương Ngọc
  • Lưu Khuê
  • Tích Đô Nhi (Siktur)
  • Trương Văn Hổ
  • Phí Củng Thìn
  • Từ Khánh
  • Đào Đại Minh
  • Trần Trọng Đạt
  • Tạ Hữu Khuê
  • Bồ Tý Thành
  • Lý Thiên Hựu

Hoàng thân quốc thích người Việt:

Nhà Thanh (1788-1789)

Tướng lĩnh nhà Thanh:

  • Tôn Sĩ Nghị
  • Sầm Nghi Đống
  • Ô Đại Kinh
  • Hứa Thế Hanh
  • Thượng Duy Thăng
  • Trương Triều Long
  • Lý Hóa Long
  • Hình Đôn Hành
  • Phúc Khang An
  • Tôn Vĩnh Thanh

Tướng lĩnh người Việt:

  • Lê Duy Chỉ
  • Hoàng Phùng Nghĩa

Xem thêm

Tham khảo

Thư mục

Thư tịch Trung Quốc

Thư tịch Việt Nam

Liên kết ngoài