Hồ Mộ La

Là ca sĩ, nghệ sĩ, nhà giáo ưu tú của Việt Nam

Hồ Mộ La (sinh 1931), bút danh Hồng Lam, là ca sĩ, nghệ sĩ, nhà giáo ưu tú của Việt Nam. Cuộc đời bà gắn liền với sự nghiệp giảng dạy thanh nhạc, bà đã phát hiện và đào tạo nhiều nghệ sĩ, ca sĩ người Việt Nam với dòng nhạc thính phòng, nhạc cổ điển như Rơ Chăm Pheng, Tố Uyên, Hà Thủy, Anh Thơ[1]...Bà sống cùng thời và là bạn thân của nghệ sĩ ưu tú Tân Nhân.[2]

Nhà giáo Ưu tú
Hồ Mộ La
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Hồ Mộ La
Ngày sinh
31 tháng 8, 1931 (92 tuổi)
Nơi sinh
Nam Kinh, Trung Quốc
Giới tínhnữ
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • Nhà giáo
  • Giảng viên âm nhạc
Gia đình
Bố mẹ
Chồng
Đặng Đức Sinh
Lĩnh vựcNhạc thính phòng
Khen thưởngHuân chương Chiến công Huân chương Chiến công hạng Nhất
Huân chương Chiến công Huân chương Chiến công hạng Nhì
Huân chương Chiến công Huân chương Chiến công hạng Ba
Huân chương Kháng chiến Huân chương Kháng chiến hạng Nhì
Huân chương Kháng chiến Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
Danh hiệuNhà giáo Ưu tú (2008)
Sự nghiệp âm nhạc
Đào tạoNhạc viện Tchaikovsky
Ca khúc
  • Em bé Mường La
  • Biết ơn chị Võ Thị Sáu
  • Sóng Cửa Tùng

Tiểu sử và sự nghiệp

Hồ Mộ La sinh ngày 31 tháng 8 năm 1931[3] (có tài liệu nói là ngày 5 tháng 11[4] năm Canh Ngọ, 1930[5]) tại Nam Kinh, Trung Quốc, nhưng quê gốc ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Bà xuất thân trong một gia đình cách mạng lưu vong nhiều năm tại Trung quốc, cha là Hồ Học Lãm (1884 – 1943), mẹ là Ngô Khôn Duy (1893 – 1980). Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, năm 1945 Hồ Chủ tịch cử người đi đón bà Khôn Duy và hai con gái là Hồ Diệc Lan và Hồ Mộ La đưa về nước nhưng đến năm 1946 ba mẹ con mới về tới Việt Nam. Khi về đến Tổ quốc, bà Khôn Duy tham gia công tác ở địa phương cùng con gái Diệc Lan, sau này Diệc Lan mất, bà ra Hà Nội công tác ở Báo Nhân dân và sống cùng Hồ Mộ La. Năm 1949 bà gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam (lúc này đã tuyên bố giải tán và hoạt động bí mật)[6]. Năm 1950, khi 19 tuổi, Hồ Mộ La là giáo viên Trung văn và làm phiên dịch. Bà tiếp tục học văn hóa tại Trường Văn hóa công - nông Hoàng Hữu Nam của Khu ủy khu 4 mở. Năm 1953, bà được tuyển vào làm diễn viên của Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị (Đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị)[7]. Sau hiệp định Geneve, năm 1956 bà làm phiên dịch cho các chuyên gia ở lớp thanh nhạc đầu tiên của Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị. Cũng thời gian này bà nổi tiếng khi thể hiện thành công bài hát “Em bé Mường La”. Năm 1957, bà theo học lớp hợp xướng dưới sự hướng dẫn của chuyên gia Triều Tiên. Tháng 8-1959 bà được nhà nước Việt Nam cử đi học khoa Thanh nhạc của Nhạc viện TchaikovskyMoskva, Liên Xô (cùng thời với Nghệ sĩ nhân dân Bùi Gia Tường). Bà là nữ nghệ sĩ hiếm hoi thời ấy sang du học âm nhạc tại Liên Xô, cùng tham gia khóa học 7 năm ở khoa Thanh nhạc của Nhạc viện Tchaikovsky với bà có nghệ sĩ Quốc Hương, Kim Ngọc...Tại đây, bà đã lĩnh hội và tiếp thu một cách toàn diện căn bản nghệ thuật và kỹ thuật thanh nhạc cổ điển và hiện đại của châu Âu, đặc biệt là phương pháp “âm thanh cộng minh”, hay còn gọi là phương pháp belcanto (giọng hát đẹp), một phương pháp rất mới trong thanh nhạc đã xuất hiện từ khoảng thế kỷ 17 nhưng phải đến giữa thế kỷ 19 mới thật sự phát triển mạnh mẽ[8]. Tốt nghiệp về nước, năm 1966 bà làm công tác tập huấn cho các đoàn văn công quân đội. Từ năm 1967 là Chủ nhiệm Khoa Thanh nhạc, Trường Nghệ thuật Quân đội (nay là Trường Đại học Văn hóa – Nghệ thuật Quân đội). Năm 1984, Hồ Mộ La chuyển sang làm giảng viên tại Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam). Bà ít đi biểu diễn hay thu thanh nhưng đã phát hiện và đào tạo nhiều ca sĩ có tên tuổi của Việt Nam. Tâm huyết với sự nghiệp dạy thanh nhạc, bà còn dịch từ tiếng Ngatiếng Trung nhiều tài liệu âm nhạc và sách giáo khoa âm nhạc.[7] Những năm 1990, sau khi nghỉ hưu, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bà nhận làm phiên dịch, làm đại diện cho một công ty Đài Loan ở Việt Nam.[1]

Một số tác phẩm đã thể hiện

Các ca khúc bà thể hiện không nhiều, chỉ vài bản thu, nổi bật là:

  1. Em bé Mường La[7]
  2. Biết ơn chị Võ Thị Sáu (sáng tác: Nguyễn Đức Toàn). Bà là người đầu tiên thể hiện ca khúc này khi 25 tuổi và tự đánh giá là cảm thấy xấu hổ khi nghe lại vì hát chưa thành công.
  3. Sóng Cửa Tùng (sáng tác: Doãn Nho)

Những học trò tiêu biểu

  1. Nghệ sĩ nhân dân Rơ Chăm Pheng, giải nhất cuộc thi hát thính phòng năm 1996.
  2. Nghệ sĩ ưu tú Tố Uyên
  3. Nghệ sĩ ưu tú Hà Thủy, đồng giải ba cuộc thi hát thính phòng năm 1996.
  4. Nghệ sĩ ưu tú Kim Khánh
  5. Nghệ sĩ ưu tú Thúy Loan
  6. Nghệ sĩ ưu tú Ngọc Hà
  7. Nghệ sĩ Xuân Thanh, giải thưởng “Người hát dân ca hay nhất” trong cuộc thi âm nhạc quốc tế Tchaikovsky.
  8. Ca sĩ Hoàng Hoa
  9. Ca sĩ Thu Hằng
  10. Ca sĩ Nông Trung Bộ
  11. Ca sĩ Thu Lan, đồng giải ba cuộc thi hát thính phòng năm 1996.
  12. Ca sĩ Anh Thơ
  13. Ca sĩ Trần Thị Huyền Trang (Thí sinh đạt giải nhất Phong cách dân gian trong Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn quốc năm 2013)[1]

Tác phẩm

Sách dịch

  1. Xêbastian Bắc (của Ôrgiêgôpxkaia, dịch từ tiếng Nga, bút danh Hồng Lam, Nhà xuất bản Văn hóa, 1981)[7]

Sách viết

  1. Lịch sử nghệ thuật thanh nhạc phương Tây (500 trang, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, 2005)
  2. Phương pháp giảng dạy thanh nhạc (gần 300 trang, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, 2008)[1]
  3. Phương pháp thanh nhạc Hồ Mộ La[7]

Hồi ký

  1. Hồi tưởng về cha tôi Hồ Học Lãm (hồi ký, viết trong 3 năm)

Danh hiệu

Năm 2008, Hồ Mộ La được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú.[1]

Bà còn được trao Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.

Giải thưởng

Quan điểm

Đánh giá

Gia đình

Bà có cha là Hồ Học Lãm (1884 – 1943), từng theo Phan Bội Châu sang Nhật Bản trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục từ năm 1906. Sau đó là sĩ quan cao cấp trong quân đội Quốc dân Đảng, tham gia cuộc cách mạng Tân Hợi – 1911 do Tôn Trung Sơn lãnh đạo. Hồ Học Lãm vừa hoạt động tình báo cho Đảng Cộng sản Trung Quốc trong màu áo Quốc dân Đảng, vừa ủng hộ cách mạng Việt Nam trong những năm 1920. Chị gái bà là Hồ Diệc Lan (1920 – 1947), người cũng có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Chồng bà là họa sĩ Đặng Đức Sinh (1927 – 1997), hai người sinh được hai người con.[2]

Chú thích

Liên kết ngoài