Trung Kỳ

xứ bảo hộ nhà Nguyễn trong Đông Dương thuộc Pháp, 1887–1945
(Đổi hướng từ Hữu Kỳ)

Trung Kỳ (chữ Hán: 中圻) là tên gọi do vua Minh Mạng đặt ra cho phần giữa của Việt Nam năm 1834, và là một trong ba vùng của nước ta khi đó, cùng với Bắc KỳNam Kỳ. Người Pháp sau khi chiếm toàn bộ Việt Nam năm 1884 đã đặt vùng đất này thành xứ bảo hộ Trung Kỳ nằm trong Đông Dương thuộc Pháp. Thời Đế quốc Việt Nam năm 1945, tên gọi Trung Kỳ được đổi thành Trung Bộ.

Xứ bảo hộ Trung Kỳ
1883–1945
1945–1948
Cờ An Nam
Long tinh kỳ
Trên: Cờ bảo hộ
Dưới: Cờ Long tinh

Tiêu ngữ"Liberté, égalité, fraternité"
"Tự do, bình đẳng, bác ái"
"Thống nhất – Độc lập"

Quốc ca"La Marseillaise"
"Bài ca Marseille"

Quốc ấn
皇帝之寶
(Hoàng Đế chi bảo)
Vị trí của Trung Kỳ (hồng) trong Liên bang Đông Dương
Vị trí của Trung Kỳ (hồng) trong Liên bang Đông Dương
Hành chính Trung Kỳ 1920
Hành chính Trung Kỳ 1920
Tổng quan
Vị thếXứ bảo hộ thuộc Pháp (1883–1945)
Lãnh thổ của Liên bang Đông Dương (1887~1948)
Thủ đôHuế
Thành phố lớn nhấtĐà Nẵng
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Pháp · Tiếng Việt
Tôn giáo chính
Phật giáo · Nho giáo · Công giáo · Tín ngưỡng dân gian
Chính trị
Chính phủQuân chủ chuyên chế dưới Chính quyền thuộc địa
Khâm sứ Trung Kỳ 
• 1886–1888
Charles Dillon (đầu tiên)
• 1944–1945
Jean Maurice Norbert Haelewyn (cuối cùng)
Hoàng đế 
• 1885–1889
Đồng Khánh
• 1889–1907
Thành Thái
• 1907–1916
Duy Tân
• 1916–1925
Khải Định
• 1925–1945
Bảo Đại
Lập phápViện Dân biểu Trung Kỳ
Lịch sử
Thời kỳPháp thuộc
1883
• Giải thể
1948
Kinh tế
Đơn vị tiền tệĐồng bạc Đông Dương
Tiền thân
Kế tục
1883:
Nhà Nguyễn
1887:
Liên bang Đông Dương
1945:
Đế quốc Việt Nam
1945:
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
1948:
Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam
Hiện nay là một phần của Việt Nam

Trung Bộ cũng được gọi là Trung Phần thời Quốc gia Việt NamViệt Nam Cộng hòa (1948–1975); hai chính thể kế tiếp nhau này chỉ còn nắm giữ vùng phía Nam vĩ tuyến 17 của Trung Phần theo sau Hiệp định Genève, 1954. Từ năm 1975, miền Trung Việt Nam được thống nhất và gọi là Trung Bộ trong các văn bản hành chính.

Dư đồ Trung Kỳ năm 1909.

Lịch sử

Trung Kỳ thời nhà Nguyễn độc lập thì tâm điểm là kinh thành Huế, tức phủ Thừa Thiên (承天) do triều đình trực tiếp quản lý. Năm tỉnh phía bắc Huế gọi là Hữu Kỳ:

  1. Thanh Hóa (清化),
  2. Nghệ An (乂安),
  3. Hà Tĩnh (河靜),
  4. Quảng Bình (廣平),
  5. Quảng Trị (廣治).

Và sáu tỉnh phía nam, gọi là Tả Kỳ gồm:

  1. Quảng Nam (廣南),
  2. Quảng Ngãi (廣義),
  3. Bình Định (平定),
  4. Phú Yên (富安),
  5. Khánh Hòa (慶和), và
  6. Bình Thuận (平順).

Nhà Nguyễn đặt ra chức tổng đốc quản hạt từ 2 đến 3 tỉnh. Các tỉnh Trung Kỳ thường đặt dưới quyền quản hạt của 6 vị tổng đốc (thường là tổng đốc Thanh Hóa, tổng đốc An-Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh), tổng đốc Bình-Trị (Quảng Bình và Quảng Trị), tổng đốc Nam-Ngãi (Quảng Nam và Quảng Ngãi), tổng đốc Bình-Phú (Bình Định và Phú Yên), tổng đốc Thuận-Khánh (Bình Thuận và Khánh Hòa)), và 1 vị phủ doãn phủ Thừa Thiên. Đứng đầu mỗi tỉnh Trung Kỳ, cũng giống toàn bộ 30 tỉnh trong cả nước (trừ phủ Thừa Thiên), đều là một viên quan tuần phủ. Cương vực Trung Kỳ thời nhà Nguyễn bao gồm cả những phần đất nay thuộc về lãnh thổ Lào (là những vùng đất thuộc địa giới các tỉnh bắc Trung Kỳ từ Thanh Hóa đến Quảng Trị) và 2 quần đảo Hoàng SaTrường Sa (chưa phân biệt rõ ràng và trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi). Nhưng Trung Kỳ không bao gồm Tây Nguyên. Đà NẵngNinh Thuận ngày nay, vào thời nhà Nguyễn đã nằm trong Trung Kỳ nhưng thuộc địa giới của 2 tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận (Đà Nẵng thuộc Quảng Nam, Ninh Thuận thuộc Bình Thuận). Trừ 3 tỉnh bắc Trung Kỳ là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh (là đất của người Việt cổ), thì phần lớn còn lại của Trung Kỳ (từ đèo Ngang đến hết Bình Thuận) từng là đất đai của vương quốc Chăm Pa.

Theo hiệp ước Harmand ký ngày 25 tháng 8 năm 1883 thì Trung Kỳ (tiếng Pháp gọi là Annam) kéo dài từ địa giới phía bắc tỉnh Bình Thuận đến Đèo Ngang (tức là tách 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía bắc và tỉnh Bình Thuận ở phía nam ra khỏi Trung Kỳ (An Nam)). Pháp đặt một viên Công sứ (Résident) tại Huế thay mặt cho chính quyền bảo hộ của Pháp tại Trung Kỳ. Hiệp ước Patenôtre ký ngày 6 tháng 6 năm 1884 quy định lại ranh giới Trung Kỳ: từ địa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở ra đến địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình (như trước năm 1883). Thực dân Pháp đặt chức "Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ" (Résident général de l'Annam et du Tonkin), gọi tắt là Tổng sứ,thay mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi công việc đối ngoại của triều đình Việt Nam và thường được gọi là "Toàn quyền lưỡng kỳ" hoặc "Toàn quyền Trung – Bắc Kỳ". Chức Tổng sứ bị bãi bỏ năm 1889, Khâm sứ Trung Kỳ đảm nhiệm các công việc cho chính phủ Pháp bên cạnh Nam triều.

Danh sách các khâm sứ Trung Kỳ

Pháp thiết lập một văn phòng đại diện ngoại giao tại Huế từ giữa năm 1875. Tháng 4 năm 1876 (Tự Đức 28), trụ sở tòa Đại diện Ngoại giao được khởi công xây dựng và hoàn thành vào tháng 7 năm 1878. Nhân viên đứng đầu được gọi là Đại diện Ngoại giao (Chargés d'Affaires)[1].

Sau hiệp ước Harmand ký ngày 25 tháng 8 năm 1883, Đại diện Ngoại giao đổi thành Công sứ (Résident) tại Huế thay mặt cho chính quyền bảo hộ của Pháp tại Trung Kỳ. Năm 1885, chính phủ Pháp đặt ra "Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ" (Résident général de l'Annam et du Tonkin), còn gọi là Tổng Trú sứ hay Tổng sứ, thay mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi công việc đối ngoại của triều đình Việt Nam và thường được gọi là "Toàn quyền lưỡng kỳ" hoặc "Toàn quyền Trung – Bắc Kỳ". Quyền hành của Toàn quyền Lưỡng kỳ ngang với Thống đốc Nam Kỳ và độc lập đối với Thống đốc Nam Kỳ. Toàn quyền Lưỡng kỳ nắm mọi quyền dân sự, quân sự, chủ trì, mọi quan hệ đối ngoại của Nam triều và mọi quan hệ giữa giới cầm quyền Pháp và Nam Kỳ. Dưới quyền trực tiếp của Toàn quyền Lưỡng kỳ là một hệ thống quan lại thực dân Pháp giúp việc: đứng đầu Bắc Kỳ là Thống sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin); đứng đầu Trung Kỳ là Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur de l’Annam) và đứng đầu mỗi tỉnh ở cả Bắc Kỳ và Trung Kỳ là Công sứ (Résident) và Phó sứ (Résident adjoint).

Chức Tổng Trú sứ bị bãi bỏ năm 1889, chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur d'Annam), còn được gọi là Đại trú sứ, được đặt ra để đảm nhiệm các công việc cho chính phủ Pháp bên cạnh Nam triều.

Thời kỳ Đại diện Ngoại giao (1875-1884)

TênNăm sinh - năm mấtThời gian tại nhiệmChú thích
Pierre Paul Rheinart1840-190230 tháng 7 năm 1875 - 13 tháng 12 năm 1876Lần thứ nhất
Paul Louis Félix Philastre1837-190714 tháng 12 năm 1876 - 3 tháng 7 năm 1879
Pierre Paul Rheinart1840-19023 tháng 7 năm 1879 - 5 tháng 10 năm 1880Lần thứ hai
Louis Eugène Palasne de Champeaux1840-18896 tháng 10 năm 1880 - 17 tháng 8 năm 1881
Pierre Paul Rheinart1840-190218 tháng 8 năm 1881 - tháng 7 năm 1883Lần thứ ba
François Jules Harmand1845-1921tháng 7 năm 1883 - 10 tháng 6 năm 1884Người ký Hòa ước Quý Mùi, 1883

Thời kỳ Công sứ (1884-1886)

TênNăm sinh - năm mấtThời gian tại nhiệmChú thích
Pierre Paul Rheinart1840-190211 tháng 6 năm 1884 - 30 tháng 9 năm 1884Sử dụng lâm thời chức danh Công sứ (Résident)
Victor Gabriel Lemaire1839-19071 tháng 10 năm 1884 - 31 tháng 5 năm 1885Từ chức vì bất đồng với de Courcy
Louis Eugène Palasne de Champeaux1840-188931 tháng 5 năm 1885 - 26 tháng 1, 1886Lâm thời

Thời kỳ Tổng sứ (1885-1889)

TênNăm sinh - năm mấtThời gian tại nhiệmChú thích
Philippe Marie André Roussel de Courcy1827-188714 tháng 4 năm 1885 - 20 tháng 1, 1886Trung tướng, Bá tước de Courcy, tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp. Đại diện toàn quyền tại Trung - Bắc Kỳ
Charles Auguste Louis Warnet1828–191327 tháng 1, 1886 - 7 tháng 4 năm 1886Thiếu tướng. Tạm quyền
Paul Bert1833-18868 tháng 4 năm 1886 - 11 tháng 11 năm 1886Quan chức dân sự đầu tiên. Bắt đầu sử dụng chức vụ Tổng Công sứ Trung – Bắc Kỳ (Résident général de l'Annam et du Tonkin).
Paulin François Alexandre Vial1831-190712 tháng 11 năm 1886 - 28 tháng 1, 1887Tạm quyền
Paul Louis Georges Bihouard1846-19??29 tháng 1, 1887 - 11 tháng 9 năm 1887Lần thứ nhất
Thiếu tá Berger (??)????-????11 tháng 9 năm 1887 - 27 tháng 10 năm 1887Tạm quyền lần thứ nhất
Paul Louis Georges Bihouard1846-19??27 tháng 10 năm 1887 - 17 tháng 11 năm 1887Lần thứ hai
Thiếu tá Berger (??)????-????17 tháng 11 năm 1887 - 25 tháng 6 năm 1888Tạm quyền lần thứ hai
Eusèbe Irénée Parreau????-????25 tháng 6 năm 1888 - 8 tháng 9 năm 1888Tạm quyền lần thứ nhất
Pierre Paul Rheinart1840-19028 tháng 9 năm 1888 - tháng 5 năm 1889
Eusèbe Irénée Parreau????-????9 tháng 5 năm 1889Tạm quyền lần thứ hai cho đến khi chức vụ Tổng sứ bị bãi bỏ.

Khâm sứ Trung Kỳ tại Huế (1886-1945)

TênNăm sinh - năm mấtThời gian tại nhiệmChú thích
Charles Dillon????-????27 tháng 1, 1886 - 1888Sử dụng chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur d'Annam)
Séraphin Hector1846-????1888-1889Lần thứ nhất
Léon Jean Laurent Chavassieux1848-18951889Về sau làm Toàn quyền Đông Dương
Séraphin Hector1846-????1889- tháng 10 năm 1891Lần thứ hai. Chức vụ Tổng sứ Trung-Bắc Kỳ bãi bỏ.
Ernest Albert Brière1848-????tháng 10 năm 1891 - 1897
Jean Calixte Alexis Auvergne1859-19421897 - tháng 3 năm 1898Lần thứ nhất
Léon Jules Pol Boulloche1855-19??tháng 3 năm 1898 - 1900
Jean Calixte Alexis Auvergne1859-19429 tháng 5 năm 1901 - 1904Lần thứ hai
Jean-Ernest Moulié????-????1904 - 1906
Fernand Ernest Levecque1852-19??1906 - 1908
Élie Jean-Henri Groleau1859-19??1908 - 1910
Henri Victor Sestier1857-19??1910 - 1912
Georges Marie Joseph Mahé????-????1912 - 1913Là người chủ trương cướp phá lăng tẩm ở Huế.
Jean François Eugène Charles????-????1913 - 1920Được xem là cha nuôi của Hoàng tử Vĩnh Thụy
Pierre Marie Antonie Pasquier1877-19341920 - 1927Về sau làm Toàn quyền Đông Dương
Jules Fries????-????1927 - 1928
Aristide Eugène Le Fol????-????1928 - 1931
Yves Charles Châtel1865-19441931 - 1934
Maurice Fernand Graffeuil????-????1943 - 1940
Émile Louis François Grandjean????-????1940 - 1944
Jean Maurice Norbert Haelewyn1901-19451944 - 9 tháng 3 năm 1945Khâm sứ Trung Kỳ cuối cùng.

Thời kỳ Công sứ Nhật tại Trung Bộ (1945)

TênNăm sinh - năm mấtThời gian tại nhiệmChú thích
Yokoyama Masayuki1892-19789 tháng 3 năm 1945 - tháng 9 năm 1945

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Pháp tìm cách trở lại phục hồi quyền thống trị tại Việt Nam, vì vậy đã đặt chức vụ Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Trung và Bắc Kỳ. Chức vụ này có chức năng gần tương đương với chức vụ Tổng sứ Trung Bắc Kỳ trước kia, nhưng đặt trụ sở ở Hà Nội.

Xem thêm

Tham khảo

  •  Bài viết này bao gồm văn bản từ một ấn phẩm hiện thời trong phạm vi công cộngChisholm, Hugh biên tập (1911). “Annam”. Encyclopædia Britannica. 2 (ấn bản 11). Cambridge University Press. tr. 61–63.
  • Legrand de la Liraye, Notes historiques sur la nation annamite (Paris, 1866?)
  • C. Gosselin, L'Empire d'Annam (Paris, 1904)
  • E. Sombsthay, Cours de législation et d' administration annamites (Paris, 1898).