Lý Chiêu Hoàng

Nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam

Lý Chiêu Hoàng (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), Chiêu Hoàng Đế (昭皇帝) hay Chiêu Thánh Hoàng Hậu (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của đế quốc Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà Lý, trị vì từ năm 1224 đến năm 1225. Bà là Nữ Hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam, nhưng không phải là vị vua nữ giới đầu tiên, vị nữ quân chủ đầu tiên là Nữ Vương Trưng Trắc.[1][chú thích 1] Bà được chính vua cha Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong có khả năng do sự sắp đặt của Điện Tiền Chỉ Huy Sứ -Trần Thủ Độ, người đang nắm quyền lực trong triều, đồng thời cũng là cậu của bà.

Lý Chiêu Hoàng
李昭皇
Nữ hoàng Việt Nam
Hoàng đế Đại Việt
Tại vịtháng 10 năm 1224 - 10 tháng 1 năm 1226
Đăng quang1224
Phụ chínhThái úy Trần Thừa
Tiền nhiệmLý Huệ Tông
Kế nhiệmTriều đại nhà Lý sụp đổ
Trần Thái Tông (Nhà Trần)
Hoàng hậu Đại Việt
Tại vị1226 - 1237
Tiền nhiệmHoàng hậu đầu tiên của nhà Trần
Nhà Lý: Thuận Trinh Hoàng hậu
Kế nhiệmHiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu
Thông tin chung
SinhTháng 9 năm Mậu Dần (1218)
Thăng Long (?)
MấtTháng 3 năm Mậu Dần (1278)
(61 tuổi)
Cổ Pháp (?)
An tángrừng Báng
Phối ngẫuTrần Thái Tông Trần Cảnh
Lê Phụ Trần
Hậu duệ
Tên húy
Lý Phật Kim (李佛金)
Lý Thiên Hinh (李天馨)
Niên hiệu
Thiên Chương Hữu Đạo (天彰有道): 1224 - 1225
Tôn hiệu
Chiêu Thánh Hoàng Đế (昭聖皇帝)
Thụy hiệu
Chiêu Hoàng đế (昭皇帝)
Tước hiệuThiên Hinh Công chúa (天馨公主)
Hoàng thái tử (皇太子)
Chiêu Hoàng (昭皇)
Chiêu Thánh Hoàng hậu (昭聖皇后)
Chiêu Thánh Công chúa (昭聖公主) (giáng vị)
Triều đạiNhà Lý (khi sinh)
Nhà Trần (hôn nhân)
Thân phụLý Huệ Tông
Thân mẫuLinh Từ Quốc mẫu

Năm 1225, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 vì không sinh được con nối dõi. Thuận Thiên Công Chúa, người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà. Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Trần Thái Tông khỏi bị truy kích trong lần quân Nguyên vào cướp. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai là Thượng Vị Hầu-Lê Tông và 1 gái là Ứng Thụy Công Chúa-Lê Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm.

Cuộc đời của bà đầy phức tạp và bi kịch, khi trở thành một nhân vật chủ chốt trong cuộc biến chuyển triều đại đầy kịch tính giữa nhà Trần và nhà Lý. Vốn dĩ là công chúa, sau trở thành nữ hoàng đế, rồi lại trở thành hoàng hậu và bị giáng làm công chúa, cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng khiến hậu thế đánh giá là một quá trình đầy phức tạp, cũng trở thành nguồn cảm hứng của rất nhiều tác phẩm thi, ca, nhạc, họa và điện ảnh.

Thân thế

Lý Chiêu Hoàng ban đầu có tên là Lý Phật Kim (李佛金), sau đổi theo tên húy là Lý Thiên Hinh (李天馨), là con gái thứ hai của Lý Huệ Tông-Lý Hạo Sảm - vị vua thứ 8 của triều đại nhà Lý. Mẹ của bà là Linh Từ Quốc Mẫu-Trần Thị, thường bị dã sử và người hiện đại gọi là "Trần Thị Dung", con gái của Trần Lý, sau trở thành hoàng hậu của Huệ Tông. Không rõ Lý Thiên Hinh sinh ngày bao nhiêu, chỉ biết bà được sinh vào khoảng tháng 9 (ÂL), năm Mậu Dần (1218), tức năm thứ 8 niên hiệu Kiến Gia, nơi bà được sinh ra có lẽ là tại kinh đô Thăng Long. Tước hiệu ban đầu là Chiêu Thánh Công Chúa (昭聖公主).

Trên bà có một chị gái là Thuận Thiên Công Chúa, sau được gả cho Khâm Minh Đại Vương-Trần Liễu - con trai trưởng của Trần Thừa và là anh trưởng của Trần Thái Tông-Trần Cảnh. Vào thời điểm bà được sinh ra, Lý Huệ Tông đã sớm phát bệnh điên, triều đình hoàn toàn rơi vào tay họ Trần mà đại biểu là Trần Tự Khánh - khi ấy đang giữ chức vụ Thái Úy, quyền phụ chính. Trần Tự Khánh là anh thứ của Trần Thị Dung, tức là bác ruột của Chiêu Thánh[2]. Một người bác khác của Chiêu Thánh là Trần Thừa, giữ chức "Nội Thị Phán Thủ" (内侍判首) - cai quản các quan nội thị phục vụ gần cho Lý Huệ Tông[3][chú thích 2].

Năm Nhâm Ngọ, tức năm Kiến Gia thứ 12 (1222), Huệ Tông đem các lộ trong nước đều chia cho hai cô công chúa con gái của mình (triều Lý có tổng 24 lộ), lấy các hoành nô thuộc lệ và quân nhân bản lộ, chia nhau làm giáp[4]. Sau khi Trần Tự Khánh qua đời, Trần Thừa được dùng tiếp làm Thái Úy Phụ Chính, vào triều không xưng tên, một người cậu khác của Chiêu Thánh là Trần Thủ Độ lại được Huệ Tông giao cho nắm giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ (殿前指揮使), quản lý các cơ cấu quân sự chủ chốt của hoàng cung.

Hoàng đế cuối cùng

Được nhường ngôi

Năm Giáp Thân, Kiến Gia năm thứ 14 (1224), tháng 10, Lý Huệ Tông ra chỉ lập Chiêu Thánh làm Hoàng Thái Tử (皇太子) rồi truyền ngôi[chú thích 3], đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo (天彰有道), tôn hiệu là Chiêu Hoàng (昭皇). Lý Huệ Tông xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội[5][chú thích 4].

Một đồng tiền được cho là có niên đại vào cuối thời Lý, đầu thời Trần.

Năm Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 (1225), họ Trần do nắm quyền hành, lần lượt được ban chức tước quan trọng cho con em trong họ, đáng kể nhất là rất nhiều con cháu họ Trần được tuyển vào cung để sung vào các chức vụ hầu trong đại nội, gần gũi với Chiêu Hoàng, bao gồm: "Lục Hỏa Thị Cung Ngoại" (六火侍宫外), "Chi Hầu" (祗侯) và "Nội Nhân Thị Nội" (内人侍内), thường thay nhau trực chầu hầu[6][chú thích 5]. Lúc này, chức vụ của Trần Thủ Độ đã bao quát đến nỗi "coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị", trong các con em vào cung hầu Chiêu Hoàng thì có Trần Bất Cập là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú - được phong "Cận Thị Thự Lục Cục Chi hậu" (近侍署六局祗候), ngoài ra còn có Trần Thiêm làm "Chi Ứng Cục" (祗應局) và Trần Cảnh làm "Chánh Thủ" (政首)[chú thích 6]. Chánh Thủ-Trần Cảnh, là con trai thứ 2 của quan Thái Úy-Trần Thừa, mới 8 tuổi được đưa vào hầu gần Chiêu Hoàng, ban đầu chỉ là ở bên ngoài điện, sau đó phụ trách đưa nước rửa mặt cho Chiêu Hoàng nên vào hầu bên trong. Trần Cảnh cùng gần tuổi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chánh bằng cách để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Từ đó, nhà Trần được thành lập.

Năm Ất Dậu (1225), ngày 21 tháng 10 (tức ngày 22 tháng 11 dương lịch), Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày 11 tháng 12 năm ấy (tức ngày 10 tháng 1 năm 1226), Chiêu Hoàng bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế ở điện Thiên An, dựng lên nhà Trần, sử gọi là Trần Thái Tông[8]. Chiêu Hoàng được Thái Tông lập làm hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh. Từ đây nhà Lý hoàn toàn chấm dứt sau 216 năm cai trị.

Quá trình truyền ngôi

Cuốn sách được xem là bộ biên niên sử sớm nhất của Việt Nam - Đại Việt Sử Lược[chú thích 7] - đã chép lại quá trình truyền ngôi cho dòng họ nhà Trần rất phức tạp. Theo như sách này ghi lại, Huệ Tông truyền ngôi xong vẫn giữ vai trò chính trị quan trọng, và ông đã chủ trương dàn xếp nhường ngôi, dưới sự góp phần không nhỏ của Thái Úy-Trần Thừa cùng Trần Thủ Độ (sách này chép Thủ Độ đang giữ tước "Thượng Phẩm Phụng Ngự" 上品奉御), sau khi truyền ngôi cho họ Trần thì Huệ Tông mới xuất gia.

Quá trình mà Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho họ Trần, thông tin từ sách Đại Việt sử ký toàn thư chép có ý khẳng định là do Trần Thủ Độ đứng sau và thao túng, vai trò của Trần Thừa và Lý Huệ Tông hoàn toàn bị lược bỏ đi:

Theo đó, Lý Chiêu Hoàng lên ngôi vào tháng 6 năm Ất Dậu (năm 1225) và nhường ngôi vào tháng 11, chỉ vỏn vẹn gần nửa năm trên ngai vàng.

Sự việc Phùng Tá Chu khuyên can không được ghi chi tiết ở Toàn thư mà chỉ ghi ở Sử lược, tuy nhiên khi ghi chép về sự việc nhường ngôi thì Ngô Sĩ Liên đã gián tiếp chứng thực câu chuyện Phùng Tá Chu khuyên Huệ Tông nhường ngôi họ Trần: "Các quan bấy giờ không ai nghĩ gì đến xã tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ hậu và Võ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần, ấy là người có tội với họ Lý". Điều này chứng tỏ thông tin Phùng Tá Chu ảnh hưởng chuyện Huệ Tông quyết định chọn Trần Cảnh làm rể từ Sử lược là chính xác. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục có lời nhận định rằng:

Nửa đời sau

Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được lập làm hoàng hậu, trở thành vị hoàng hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử, vì khi đó bà mới 8 tuổi. Bà chung sống với Trần Thái Tông hơn 10 năm, không có ghi chép gì cụ thể về bà trong suốt thời gian này.

Năm Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (1237), hơn 10 năm mà Thái Tông cùng Chiêu Thánh không có con, Thái Sư-Trần Thủ Độ cùng Thiên Cực công chúa lo sợ huyết thống hoàng gia bị đứt đoạn, nên ép Thái Tông phải bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu là Thuận Thiên Công Chúa đang có thai 3 tháng. Trần Thái Tông cảm thấy chuyện này hổ thẹn, đang đêm trốn khỏi kinh thành để lên gặp sư Phù Vân ở Yên Tử nương nhờ. Trần Thủ Độ vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng Thái Tông cũng phải chịu nghe theo. Thuận Thiên Công Chúa được lập làm hoàng hậu thay thế, Chiêu Thánh bị giáng làm "công chúa" - tức hàng ngoại mệnh phụ[9]. Vì chuyện này, Hoài Vương-Trần Liễu nổi loạn ở sông Cái, nhiều năm nhiều tháng không ngừng. Cuối cùng, Trần Liễu đến xin Thái Tông tha tội, hai anh em ôm nhau khóc thảm thiết. Sau đó, Liễu được đổi phong hiệu làm "An Sinh Vương" (安生王), được ban các vùng An Sinh, An Phụ, An Dưỡng, An Hưng, An Bang làm ấp thang mộc (nay thuộc hai huyện Đông TriềuYên Hưng, tỉnh Quảng Ninh). Những tướng sĩ và quân lính đi theo Trần Liễu làm loạn đều bị xử tử[10].

Từ ấy đến hơn 20 năm sau, chính sử không hề đề cập hành trạng của bà. Sách "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" của Lê Thái Dũng có đề cập về một truyền thuyết rằng Chiêu Thánh sau khi bị giáng đã xuất gia tại chùa Linh Tiên của làng Giao Tự (nay thuộc xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội), thế nhưng văn bản chứng minh rất mơ hồ[11]. Năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8 (1258), sau cuộc chiến với quân đội Mông Cổ trong dịp người Nguyên vào cướp, Trần Thái Tông gả Chiêu Thánh cho quan Ngự Sử Trung Tướng- Lê Phụ Trần, vốn tên Lê Tần (黎秦), người Ái Châu[chú thích 11], vì có công phò giúp nhà Vua nên được Thái Tông ban tên "Phụ Trần" (có nghĩa giúp họ Trần) và ban cho chức Ngự Sử Đại Phu, sách An Nam Chí Lược ghi Lê Phụ Trần được phong "Nhập Nội Phán Thủ" (入內判首) và còn được ban tước "Bảo Văn Hầu" (保文侯)[12]. Khi quyết định ban hôn, Thái Tông còn nói: "Trẫm không có khanh, thì đâu có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để cùng được trọn vẹn về sau"[13].

Đầu năm Mậu Dần, niên hiệu Bảo Phù thứ 6 (1278), tháng 3, Chiêu Thánh Công Chúa- Lý thị qua đời, thọ 61 tuổi. Bà qua đời sau gần 1 năm tròn so với Trần Thái Tông (qua đời năm 1277). Khi bà Chiêu Thánh được gả cho Lê Phụ Trần thì bà đã ở vào khoảng năm 40 tuổi, hai người sống với nhau 20 năm, sinh ra con trai là Thượng Vị Hầu Lê Tông, con gái là Ứng Thụy Công Chúa tên là Khuê. Chính sử không chép nơi an táng và lễ nghi của bà Chiêu Thánh, và dù khi qua đời bà vẫn chỉ là "Chiêu Thánh Công chúa", nhưng hậu thế vẫn thường gọi bà theo tôn hiệu "Lý Chiêu Hoàng".

Nhìn nhận

Cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng thường được nhìn nhận là bi kịch khi trở thành con rối chính trị lúc còn quá nhỏ. Có một số ý kiến việc đền Lý Bát Đế (tức Đền Đô) chỉ thờ 8 vị Hoàng đế nhà Lý là vì đổ tội Lý Chiêu Hoàng làm mất nhà Lý, đồng thời còn cho rằng người đương thời lên án và xem trách nhiệm hoàn toàn do Lý Chiêu Hoàng. Trước mắt, căn cứ vào cuốn sách chính sử hàng đầu của Việt Nam là Đại Việt sử ký toàn thư được soạn vào thời Lê sơ, người đời Lê nhận xét việc triều Lý mất hoàn toàn do số trời mà không phải là lỗi một cá nhân từ Lý Chiêu Hoàng. Sử gia Ngô Sĩ Liên khi bàn về việc này có nói:

Bên cạnh đó, về việc tái hôn của Chiêu Hoàng mà tác giả là Trần Thái Tông, sách Toàn Thư chê trách nặng lời việc nhà Vua mang bà là vợ cũ, hơn nữa còn là Cựu Hoàng Đế, gả cho Lê Phụ Trần là bầy tôi. Ngô Sĩ Liên viết gay gắt: "Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại thấy ở đây lần nữa".

Sự việc sau cái chết của Lý Chiêu Hoàng tiếp tục được đồn thổi với rất nhiều truyền thuyết. Sách Việt Sử Tiêu Án, một cuốn sử đời Lê Trung Hưng do Ngô Thì Sĩ soạn đã có chép lại thuyết dân gian rằng bà đã nhảy hồ tự sát. Nguyên văn: "Bà Chiêu Thánh mất. Bà đã bị giáng là Công Chúa, rồi gả cho Phụ Trần, khi ấy mất đã 61 tuổi. Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang, có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên bờ đầm có miếu Chiêu Hoàng. Đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Hoàng mà đặt ra thuyết ấy! Bà Chiêu Hoàng nhất sinh ra là người dâm cuồng, lấy chồng không vừa lứa đôi, đâu còn trinh tiết như lời người ta truyền lại". Do thời đại đã trôi qua, thời kỳ Lê trung hưng đã có cái nhìn khắt khe hơn với chuyện về Lý Chiêu Hoàng, bên cạnh chê bai họ Trần như cũ thì cuốn sách này cũng phê phán Lý Chiêu Hoàng rất lớn trong việc tái giá này. Ngoài nhận định Chiêu Hoàng "nhất sinh là người dâm cuồng" như trên, thì còn có nhận xét khác:

Học giả Lê Thái Dũng trong cuốn "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" có ghi lại một tương truyền rằng trước khi qua đời, bà Lý Chiêu Hoàng đã về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh) và qua đời tại đó. Khi mất, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn tươi như hoa đào[14], cũng vì những thông tin này mà trong sách còn đề cập một giả thiết rằng Lý Chiêu Hoàng được gả cho Lê Phụ Trần là một "thế thân", mà Lý Chiêu Hoàng thực tế vẫn còn ở trong cung, hoặc đã qua đời, hoặc đã xuất gia, tuy nhiên những điều trên mà Lê Thái Dũng ghi chép đều chỉ mang tính truyền miệng của dân gian, hoàn toàn không được xem là chứng cứ. Sau khi mất, chính sử không chép về nơi Lý Chiêu Hoàng được an táng, tuy nhiên không biết từ bao giờ mà có thông tin rằng Lý Chiêu Hoàng được an táng ở bìa rừng Báng, phía tây Thọ Lăng Thiên Đức (nơi an táng của các vị Vua nhà Lý), do vậy người đời sau lập đền thờ gọi là Long Miếu (đền Rồng) - hiện nay tại Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, (tỉnh Bắc Ninh)[15]. Cũng theo Lê Thái Dũng, sở dĩ Lý Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ Lý khi để mất nhà Lý[14].

Nhà thơ Tản Đà có bài thơ Vịnh Lý Chiêu Hoàng như sau:

Quả núi Tiên Sơn có nhớ công
Mà em đem nước để theo chồng
Ấy ai khôn khéo tài dan díu
Những chuyện hoa tình có biết không?
Một gốc mận già[chú thích 12] thôi cũng phải
Hai trăm năm lẻ thế là xong
Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo
Khách khứa nhà ai áo mũ đông.

Ở Từ Sơn (Bắc Ninh) vẫn còn câu ca dao thác lời Chiêu Hoàng trách Trần Cảnh về việc này:

Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao![16]

Hậu duệ

  1. Hoàng thái tử Trần Trịnh (陳鄭), không ghi rõ là Chiêu Hoàng sinh ra ở bất kỳ sách sử nào. Trong sách Toàn thư, Thái tử Trịnh không được ghi năm sinh mà chỉ ghi hôm ấy mất, Ngô Sĩ Liên bèn nghĩ rằng "vừa sinh ra đã mất", chứ hoàn toàn không chắc chắn Thái tử là vừa sinh đã mất, càng không nói đến Thái tử do Chiêu Hoàng sinh ra[17].


  1. Lê Tông (黎琮)[18], con trai duy nhất, được ban tước Thượng Vị Hầu. Có suy đoán đây là Bảo Nghĩa Vương-Trần Bình Trọng.
  2. Ứng Thụy Công Chúa, tên Khuê (珪)[18], con gái duy nhất. Không rõ hành trạng. Tiểu thuyết của Lê Thái Dũng gọi là "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" có thông tin ghi trong "Niên biểu Lý Chiêu Hoàng" rằng công chúa lấy Trạng Nguyên-Trần Cố, quê ở xã Phạm Triền, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng, lộ Hải Đông (nay là thôn Phạm Lý, xã Ngô Quyền, huyện Thanh Miện, Hải Dương), đỗ Kinh trạng nguyên khoa Bính Dần. Hiện không rõ Lê Thái Dũng lấy thông tin này ở đâu.

Quan hệ với Trần Bình Trọng

Không có bất kì ghi chép lịch sử nào giữa Lý Chiêu Hoàng với Trần Bình Trọng có quan hệ ruột thịt gì hay không.

Sách Toàn thư chỉ nói: "Vương (tức Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng) là dòng dõi Lê Đại Hành", và PGS. Tiến sĩ Trần Bá Chí trong cuốn "Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn" đã dựa vào "Lê triều miêu duệ" và "Cổ Mai bi ký" để giả định Trần Bình Trọng là con của Lê Phụ Trần, và Trần Bá Chí nhấn mạnh "nếu Phụ Trần chỉ lấy một mình Chiêu Thánh Công chúa" thì Trần Bình Trọng có thể là con của Lê Phụ Trần với Lý Chiêu Hoàng[19]. Nếu đúng là như vậy, thì Lý Chiêu Hoàng là ngoại tổ mẫu nhiều đời của Trần Minh Tông-Trần Mạnh - cháu 4 đời của Trần Thái Tông, vì mẹ của Minh Tông là Chiêu Từ Hoàng Thái Hậu - con gái của Trần Bình Trọng.

Trong văn hoá đại chúng

NămTác PhẩmDiễn Viên
2013Thái sư Trần Thủ ĐộĐào Hạnh Đan

Chú thích

Tham khảo

Nguồn tham khảo

Ghi chú

Xem thêm

Liên kết ngoài