Nguyễn Thị Lan (phi tần)

Nguyễn Thị Lan (chữ Hán: 阮氏蘭; ? – 1714), phong hiệu Kính phi Phu nhân (敬妃夫人), là một cung tần của Minh vương Nguyễn Phúc Chu trong lịch sử Việt Nam.

Kính phi Phu nhân
敬妃夫人
Phi tần chúa Nguyễn
Thông tin chung
Sinh?
Mất1714
Phú Xuân, Đại Nam
An tángHương Trà, Huế
Phu quânMinh vương Nguyễn Phúc Chu
Hậu duệDận Quốc công Nguyễn Phúc Điền
Tên húy
Nguyễn Thị Lan
阮氏蘭
Thụy hiệu
Từ Đức Kính phi
慈德敬妃
Thân phụNguyễn Hữu Hiệp

Tiểu sử

Kính phi Nguyễn Thị Lan là con gái của Tham chính Nguyễn Hữu Hiệp[1]. Năm đầu Minh vương Nguyễn Phúc Chu đăng cơ, bà Lan được tiến cung, đứng thứ ba trong bậc Hữu Cung tần (右宮嬪) rồi thăng lên Chánh nội phủ (正內府).

Cung tần Nguyễn thị rất được chúa Minh yêu chiều. Tương truyền, bà sinh được 11 người con[1], nhưng hiện chỉ rõ được một người là Thái bảo Dận Quốc công Nguyễn Phúc Điền, con trai thứ 12 của chúa Minh[2]. Quốc công Điền là cha của công nữ Ngọc Cầu, là em họ, đồng thời cũng là sủng thiếp của chúa Vũ Nguyễn Phúc Khoát.

Năm Giáp Ngọ (1714), mùa thu, cung tần Nguyễn Thị Lan qua đời, được gia tặng làm Kính phi (敬妃), liệt vào hàng Phu nhân (夫人), thụyTừ Đức (慈德)[2]. Mộ của Nguyễn Kính phi được táng ở xã Trúc Lâm (nay là phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, Huế), đền thờ của bà được lập ở Hà Khê (phủ Thừa Thiên)[2].

Bà Kính phi mất được một năm, chúa Minh vẫn thương tiếc không thôi, làm đàn chay trọng thể ở chùa Thiên Mụ[1]. Chúa có làm 4 bài thơ thương nhớ, viết lên tường chùa. Bấy giờ, khi các cung tần từ trần, không ai được ân sủng long trọng như thế, người đời cho là điều lạ. Các bài thơ viếng Kính phi có lời rằng[2]:

Bài I

Phiên âm:
Vấn thiên hà sự thiết ngô phi
Hoa tạ, tam cung nguyệt yếm huy
Bất đạc nữ trung vong khổn phạm
Hoàn tri kỳ nội thất dung nghi
Thời đương thất tịch Ngân hà ám
Sầu ký thiên niên giới lộ hi
Mạn đạo tiếu nhân nhi phụ thái
Cổ kim thùy cánh thử tình vi.
Dịch nghĩa:
Cớ chi trời lại cướp phi ta
Hoa rụng, ba cung bóng nguyệt tà
Chẳng những gương treo trong bạn gái
Lại đầy năm chẵn vắng người hoa
Đêm vừa mồng bảy sông Ngân tối
Sầu để ngàn năm móc hẹ pha
Đừng có cười trò nhi nữ nhé
Tình nay ai để tránh từ xưa.

Bài II

Phiên âm:
Khứ niên Chức nữ nhập song minh
Khước bị trùng vân tựu địa sinh
Chế cẩm vị hoàn, ty tại trục
Xuyên châm tài bãi, tuyên phiêu doanh
Không hoài ngũ dạ Quỳnh lâu địch
Khởi vọng song xuy ngọc điện sinh
Nhất phiến mê ly nghi thử tế
Uyên ương tú chẩm mộng nan thành.
Dịch nghĩa:
Sao nữ năm qua soi cửa sổ
Làn mây lớp lớp đến che rồi
Gấm dệt chưa xong tơ lở dở
Kim xâu vừa được, chỉ tơi bời
Sáo Quỳnh lâu, canh khuya luống nhớ
Sênh ngọc điện, nay dễ thổi đôi
Mơ hồ tấc dạ ngờ đâu đó
Giấc mộng uyên ương uổng kiếm hoài.

Bài III

Phiên âm:
Nội trợ tằng kinh ức ỷ ni
Duy dư đồng nhữ lưỡng nan kỳ
Phi nhân mộ sắc tiềm huy lệ
Chỉ vị tôn hiền tụng phú thi
Việt hải tuy khoan, nan tải hận
Tẩm lăng nghi cận, dị quan bi
Trường đê thả mạc tài dương liễu
Hảo đãi Thanh minh túng mục thì.
Dịch nghĩa:
Dịu dàng nội trợ nghĩ thương âu
Chỉ chúng ta sao khó hẹn nhau.
Há vì sắc đẹp rơi hàng lệ,
Chỉ vị người hiền vịnh mấy câu.
Biển Việt dầu to khôn chở hận,
Bia lăng gần đọc để khuây sầu.
Đê dài đừng có trồng dương liễu.
Đợi tiết Thanh minh mắt ắm lâu.

Bài IV

Phiên âm:
Nhữ thọ tuy vi, phúc tự trường
Nhân truyền phúc trạch Nguyễn cung hương
Phao tư kim ngọc doanh song níp
Lưu thử nhi tôn mãn nhất đường
Đối cảnh kỷ hồi hàm biệt lệ
Lân tài nhất thế động trung trường
Kim bằng diệu pháp không vương lực
Tiến bạt u hồn đạt thượng phương.
Dịch nghĩa:
Tuổi thọ ngắn thôi Phước lại dài
Phước lưu cung Nguyễn ngát hương thơm
Quăng đi vàng ngọc đầy hai tráp
Để lại cháu con nối vạn đời
Đối cảnh đòi phen cầm giọt lệ
Thương tài một kiếp động lòng ai
Nhờ phép Như Lai mầu nhiệm ấy
U hồn siêu độ thoát luân hồi.

Tham khảo

Chú thích