Nguyễn Văn Toàn

Quan tham nhũng của VNCH.

Nguyễn Văn Toàn (1932 - 2005) nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia. Ra trường, được chọn phục vụ Binh chủng Kỵ binh, nên sau này ông được xem là một vị tướng xuất thân từ Thiết giáp. Có một thời gian ông chuyển sang Bộ binh, chỉ huy một Sư đoàn đóng ở Quảng Ngãi,[1] có tin đồn ông đã lợi dụng chức vụ, cho quân vào rừng Trà My lấy vỏ cây quế rồi bán sang Hồng Kông, được các tờ báo Sóng Thần, Tuần Báo Đời,... xuất bản tại Sài Gòn. Do đó nên ông được gắn cho cái tên đầy mỉa mai là "Quế tướng công".[2]

Nguyễn Văn Toàn
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn
Chức vụ

Tư lệnh Quân đoàn III
Nhiệm kỳ1/1975 – 29/4/1975
Cấp bậc-Trung tướng
Tiền nhiệm-Trung tướng Dư Quốc Đống
Kế nhiệmSau cùng
Vị tríQuân khu III
Tư lệnh phó 1




Tư lệnh phó 2



Tư lệnh phó 3


Tham mưu trưởng
-Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
(kiêm Tư lệnh Tiền phương, Đặc trách Kế hoạch Hành quân)
-Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu
(Đặc trách Kế hoạch Hành quân đến ngày 8/4/1975)
-Thiếu tướng Đào Duy Ân
(Đặc trách Lãnh thổ Quân khu)
-Chuẩn tướng Lê Trung Tường

Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp
(Lần thứ hai)
Nhiệm kỳ10/1974 – 29/4/1975
Cấp bậc-Trung tướng
Tiền nhiệm-Chuẩn tướng Lý Tòng Bá
Kế nhiệmSau cùng
Vị tríBiệt khu Thủ đô
Chỉ huy phó
Phụ tá CHT
Tham mưu trưởng
-Đại tá Thẩm Nghĩa Bôi
-Đại tá Lương Bùi Tùng
-Đại tá Nguyễn Đức Dung

Tư lệnh Quân đoàn II
Nhiệm kỳ5/1972 – 10/1974
Cấp bậc-Thiếu tướng
-Trung tướng (3/1974)
Tiền nhiệm-Trung tướng Ngô Dzu
Kế nhiệm-Thiếu tướng Phạm Văn Phú
Vị tríQuân khu II

Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp
(Lần thứ nhất)
Nhiệm kỳ2/1972 – 5/1972
Cấp bậc-Thiếu tướng
Tiền nhiệm-Đại tá Phan Hòa Hiệp
Kế nhiệm-Đại tá Dương Văn Đô
Vị tríBiệt khu Thủ đô

Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh
Nhiệm kỳ1/1967 – 2/1972
Cấp bậc-Chuẩn tướng (6/1968)
-Thiếu tướng (11/1970)
Tiền nhiệm-Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm
Kế nhiệm-Đại tá Phan Hòa Hiệp
Vị tríVùng 2 chiến thuật

Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 4 Thiết giáp tại Đà Nẵng
(Lần thứ hai)
Nhiệm kỳ12/1964 – 1/1967
Cấp bậc-Trung tá (11/1965)
-Đại tá (1/1967)
Tiền nhiệm-Trung tá Nguyễn Tuấn
Kế nhiệm-Thiếu tá Phan Hòa Hiệp
Vị tríVùng 1 chiến thuật

Chỉ huy trưởng Trường Thiết giáp
tại Long Hải, Phước Tuy
Nhiệm kỳ6/1963 – 12/1964
Cấp bậc-Thiếu tá
Tiền nhiệm-Thiếu tá Dương Văn Đô
Kế nhiệm-Trung tá Lâm Quang Thơ
Vị tríVùng 3 chiến thuật

Tham mưu trưởng BCH Thiết giáp
Trại Trần Hưng Đạo, Tân Sơn Nhất, Gia Định
Nhiệm kỳ1/1961 – 6/1963
Cấp bậc-Thiếu tá
Vị tríVùng 3 chiến thuật
Chỉ huy trưởng-Trung tá Nguyễn Văn Thiện

Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 4 Thiết giáp tại Huế
(Lần thứ nhất)
Nhiệm kỳ7/1957 – 1/1959
Cấp bậc-Đại úy (12/1956)
-Thiếu tá (1/1959)
Tiền nhiệm-Đại úy Nguyễn Đình Bảng
Kế nhiệm-Đại úy Nguyễn Tuấn
Vị tríVùng 1 chiến thuật
Thông tin chung
Quốc tịch Hoa Kỳ
 Việt Nam Cộng hòa
Sinh6 tháng 10 năm 1932
Phú Vang, Thừa Thiên, Liên bang Đông Dương
Mất19 tháng 10 năm 2005(2005-10-19) (73 tuổi)
Los Angeles, California, Hoa Kỳ
Nguyên nhân mấtTuổi già
Nơi ởCalifornia, Hoa Kỳ
Nghề nghiệpQuân nhân
Dân tộcKinh
VợPhan Thu Cầm
Con cái3 người con (2 trai, 1 gái)
Nguyễn Văn Thịnh
Nguyễn Văn Vượng
Nguyễn Thị Thu Hằng
Học vấnTú tài bán phần
Trường lớp-Trường Quốc học Khải Định, Huế
-Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt
-Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn Đông, Cap Saint Jacques (Vũng Tàu)
-Học viện Thiết giáp Kỵ binh Saumur, Pháp
-Trường Kỵ binh Fort Knox, [Kentucky, Hoa Kỳ
Quê quánTrung Kỳ
Binh nghiệp
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Phục vụ Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1950 - 1975
Cấp bậc Trung Tướng
Đơn vị Binh chủng Thiết giáp
Sư đoàn 2 Bộ binh
Quân đoàn II và QK 2
Quân đoàn III và QK 3
Chỉ huy Quân đội Quốc gia
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Tham chiếnChiến tranh Việt Nam
Khen thưởng Bảo quốc Huân chương đệ Nhị đẳng

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày ngày 6 tháng 10 năm 1932 trong một gia đình gia giáo khá giả tại Phú Vang, Thừa Thiên, miền Trung Việt Nam. Thời niên thiếu, ông là học sinh trường Quốc học Khải Định ở Huế. Ông tốt nghiệp Trung học phổ thông với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Quân đội quốc gia Việt Nam

Năm 1950, sau khi thi đậu Tú tài và cũng vừa tròn 18 tuổi, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 52/206.032. Theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950.[3] Đang thụ huấn nửa chừng, ông bị bệnh nên xin xuất khóa để điều trị. Qua năm 1951, ông tiếp tục theo học khóa 5 Hoàng Diệu, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Sau khi tốt nghiệp, ông gia nhập vào Binh chủng Thiết giáp. Nửa năm sau ông được theo học khóa căn bản Thiết giáp tại Trung tâm Huấn luyện Thiết giáp Viễn đông ở Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Ngày 1 tháng 4 năm 1953, ra trường được giữ chức vụ Chi đội trưởng Thám thính xa. Đầu năm 1954, ông được thăng cấp Trung úy, làm Chi đoàn phó Chi đoàn Thám thính.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Đầu năm 1956, sau một thời gian từ Quân đội quốc gia chuyển sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được cử đi du học khóa Thiết giáp cao cấp tại Học viện Thiết giáp Kỵ binh Saumur, Pháp. Mãn khóa về nước giữ chức vụ Chi đoàn trưởng Chi đoàn Thiết giáp. Cuối năm, ông được thăng cấp Đại úy và được cử giữ chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 4 Thiết giáp.

Tháng 7 năm 1957, bàn giao chức vụ Trung đoàn phó lại cho Đại úy Trần Quang Khôi, ông được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 Thiết giáp ở Huế thay cho Đại úy Nguyễn Đình Bảng.[4] Cuối năm 1958, bàn giao Trung đoàn 4 lại cho Đại úy Nguyễn Tuấn,[5] Đầu năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử đi du học khóa Thiết giáp cao cấp tại trường Kỵ binh Fort Knox, bang Kentucky, Hoa Kỳ trong thời gian 6 tháng.

Đầu năm 1961, ông được giữ chức Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp tại Trại Trần Hưng Đạo, Tân Sơn Nhất do Trung tá Nguyễn Văn Thiện làm Chỉ huy trưởng. Năm 1962, ông được cử đi du học lớp Tham mưu Đặc biệt (giáo trình chống nổi loạn) tại căn cứ Fort Bragg, North Carolina, Hoa Kỳ.

Tháng 6 năm 1963, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp tại Long Hải, Phước Tuy thay thế Thiếu tá Dương Văn Đô.[6] Cuối năm 1964, bàn giao trường Thiết giáp lại cho Trung tá Lâm Quang Thơ để đi tái nhiệm chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 Thiết giáp tại Đà Nẵng thay thế Trung tá Nguyễn Tuấn. Ngày 1 tháng 11 năm 1965,[7] ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.

Đầu tháng 1 năm 1967, ông được lệnh bàn giao Trung đoàn 4 Thiết giáp lại cho Thiếu tá Phan Hòa Hiệp. Trung tuần tháng 1 ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm được cử đi làm Tư lệnh Quân đoàn I, Quân khu 1.

Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1970, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm.

Đầu tháng 2 năm 1972, ông được chỉ định chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp, hoán chuyển nhiệm vụ với Đại tá Phan Hòa Hiệp về làm Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh. Tháng 5 cùng năm, bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Thiết giáp lại cho Đại tá Dương Văn Đô. Sau đó ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II thay thế Trung tướng Ngô Dzu[8]

Đầu tháng 3 năm 1974, ông được thăng cấp Trung tướng. Cuối tháng 10 cùng năm bàn giao Quân đoàn II lại cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú để đi tái nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp[9] thay thế Chuẩn tướng Lý Tòng Bá[10]

Năm 1975

Ngày 6 tháng 1, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III thay thế Trung tướng Dư Quốc Đống (xin từ nhiệm). Đồng thời vẫn đảm nhiệm chức Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp Trung ương.

  • Binh chủng Thiết giáp vào thời điểm tháng 3 và tháng 4/1975, nhân sự ở Bộ chỉ huy Trung ương và Chỉ huy các đơn vị Kỵ binh trực thuộc đã biệt phái cho các Quân đoàn và Sư đoàn được phân bổ trách nhiệm như sau:

-Chỉ huy trưởng - Trung tướng Nguyễn Văn Toàn
-Chỉ huy phó - Đại tá Thẩm Nghĩa Bôi[11]
-Phụ tá Chỉ huy trưởng - Đại tá Lương Bùi Tùng[12]
-Tham mưu trưởng - Đại tá Nguyễn Đức Dung[13]
-Chi huy Trường Thiết giáp - Đại tá Huỳnh Văn Tám[14]
-Lữ đoàn 1 Kỵ binh[15] - Đại tá Nguyễn Xuân Hường[16]
-Lữ đoàn 2 Kỵ binh[17] - Đại tá Nguyễn Văn Đồng[18]
-Lữ đoàn 3 Kỵ binh[19] - Chuẩn tướng Trần Quang Khôi
-Lữ đoàn 4 Kỵ binh[20] - Đại tá Trần Ngọc Trúc[21]

  • Quân đoàn III vào thời điểm tháng 4/1975, nhân sự trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn được phân bổ trách nhiệm như sau:

-Tư lệnh - Trung tướng Nguyễn Văn Toàn
-Tư lệnh phó 1[22] - Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
-Tư lệnh phó 2[23] - Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu
-Tư lệnh phó 3[24] - Thiếu tướng Đào Duy Ân
-Tham mưu trưởng - Chuẩn tướng Lê Trung Tường
-Trưởng phòng 3 - Đại tá Hoàng Đình Thọ[25]
-An ninh Quân đội - Đại tá Nguyễn Khuyến
-Chỉ huy Pháo binh - Đại tá Lê Văn Trang[26]
-Chỉ huy Tiếp vận - Đại tá Trần Quốc Khang[27]

Chiều ngày 29 tháng 4, ông dùng trực thăng di tản ra Đệ Thất Hạm đội đang đậu ở ngoài khơi Vũng Tàu. Sau đó, ông được sang định cư ở thành phố Los Angeles, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Ngày 19 tháng 10 năm 2005, ông từ trần tại nơi định cư, "thọ" 73 tuổi. Ông được táng tại Nghĩa trang Rose Hill, Los Angeles, California, Hoa Kỳ.

Gia đình

  • Phu nhân: Bà Phan Thu Cầm
  • Các con: Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Văn Vượng và Nguyễn Thị Thu Hằng

Huy chương

-Bảo quốc Huân chương đệ nhị đẳng
-30 huy chương đủ loại
-2 Silver Star U.S.[28]

Chú thích

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Liên kết

  • Andrade, Dale. Trial by Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle. New York: Hippocrene Books, 1993.
  • Vien, General Cao Van, The Final Collapse. Washington DC: U.S. Army Center of Military History, 1983.