Nguyễn Xuân Mậu

Nguyễn Xuân Mậu (sinh năm 1922), tên thật Nguyễn Xuân Kế là một tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Phó Chính ủy Quân chủng Phòng không Không quân, Chính ủy Bí thư Đảng ủy Quân chủng Phòng không, Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng uỷ Quân sự Trung ương.[1][2][3]

Thân thế và sự nghiệp

Ông sinh tháng 10 năm 1922, quê ở thôn Yên Trường, xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (Nay là Thủ đô Hà Nội)

Tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 1938 trong tổ chức Tương tế Ái hữu của Mặt trận Bình dân, rồi tham gia thanh niên dân chủ, thanh niên phản đế.

Năm 1940, ông tham gia đoàn thanh niên cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, Hà Nội.

Năm 1941, ông được bầu vào Ban chấp hành thanh niên cứu quốc, phụ trách Ban chấp hành Việt Minh xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, Hà Nội.

Năm 1944, ông là Đội trưởng Đội tuyên truyền vũ trang huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông, phụ trách đội tự vệ chiến đầu giành chính quyền tại xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông.

Trong Cách mạng tháng 8, ông chỉ huy Đội tự vệ chiến đấu cùng các đoàn thể cách mạng giành chính quyền ở huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (17.08.1945).

Tháng 10 năm 1945, ông được bầu là huyện ủy viên, cán bộ Việt Minh huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Tháng 10 năm 1946, ông nhập ngũ là Chính trị viên trung đội, chính trị viên Đại đội 23 Tiểu đoàn 87 Trung đoàn 34 chiến đấu tại 2 tỉnh Ninh Bình, Nam Định.

Tháng 1 năm 1948, ông là Chính trị viên Đại đội 14 Trung đoàn 66. Năm 1950, ông là Chính trị viên Tiểu đoàn 632 Trung đoàn 34. Bí thư Tiểu đoàn ủy Trung đoàn 45 thuộc Bộ Tư lệnh Đại đoàn Pháo binh 351.

Tháng 5 năm 1952, ông theo học lớp chính trị do Tổng cục Chính trị mở

Tháng 10 năm 1952, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Chính trị viên Tiểu đoàn, Bí thư Tiểu đoàn ủy Tiểu đoàn phòng không 681 thuộc Bộ quốc phòng, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ngày 21 tháng 09 năm 1954, ông là Chính ủy Trung đoàn pháo Phòng không 681 Đại đoàn pháo cao xạ 367 Bộ Tư lệnh Pháo binh, Đảng ủy viên Đại đoàn.

Sau hiệp định Genève, ông được cử giữ chức vụ Chủ nhiệm Chính trị Đại đoàn pháo cao xạ 367 Bộ Tư lệnh Pháo binh. Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Đại đoàn.

Năm 1956, ông được cử đi học tại Học viện Chính trị trung cao ở Bắc Kinh (Trung Quốc).

Tháng 11 năm 1958, ông là Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tư lệnh Phòng không.

Ngày 22 tháng 10 năm 1963, ông là Phó Chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Phòng không Không quân. Phó Bí thư Đảng ủy Quân chủng.

Tháng 10 năm 1964, ông là Phó Chính ủy Quân chủng Phòng không Không quân. Phó bí thư Đảng ủy Quân chủng.

Tháng 10 năm 1965, ông là Chủ nhiệm Chính trị Học viện Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Học viện

Tháng 3 năm 1966, Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Phòng không Không quân, Phó bí thư Đảng ủy Quân chủng.

Năm 1971, ông là Phó Chính ủy Quân chủng Phòng không Không quân

Tháng 8 năm 1974, ông được cử đi học Bổ túc tại trường cao đẳng quân sự ở Liên Xô. Trở về nước

Tháng 6 năm 1975, ông là Phó chính ủy Quân chủng Phòng không Không quân.

Ngày 16 tháng 5 năm 1977, ông là Chính ủy Quân chủng Phòng không

Tháng 9 năm 1980, ông là Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Quân sự Trung ương.

Tháng 1 năm 1985, ông là Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng Tổng cục Chính trị, Bộ quốc phòng

Tháng 1 năm 1986, ông là Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy Quân sự Trung ương.

  • Ông là Đại biểu Đảng bộ Bộ Quân đội, tham dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3, 5 và 6.
  • Năm 1989, ông nghỉ hưu.

Lịch sử thụ phong quân hàm

Năm thụ phong19791986
Quân hàmTập tin:Vietnam People's Army Major General.jpgTập tin:Vietnam People's Army Lieutenant General.jpg
Cấp bậcThiếu tướngTrung tướng

Khen thưởng

Chú thích