Sphenodon

Chi Sphenodon là một chi gồm loài bò sát gọi là tuatara (tiếng Anh) đặc hữu của New Zealand. Dù bề ngoài trông giống thằn lằn, chúng thuộc một dòng bò sát riêng, trong bộ Rhynchocephalia.[7] Tên "tuatara" bắt nguồn từ tiếng Māori, có nghĩa là "đỉnh nhọn trên lưng".[8] Đây là chi duy nhất còn sinh tồn trong bộ Rhynchocephalia bắt nguồn từ Kỷ Tam Điệp khoảng 240 triệu năm trước, và phát triển mạnh trong kỷ nguyên Đại Trung sinh.[9] Tổ tiên chung gần nhất của chúng là các loài trong Bộ Bò sát có vảy (Squamata) (thằn lằnrắn).[10] Vì lý do này, loài tuatara được quan tâm đến bởi những nhà nghiên cứu về sự tiến hóa của thằn lằn và rắn.

Tuatara
Thời điểm hóa thạch: Đầu thế Miocen – gần đây, 19–0 triệu năm trước đây [1]
Tuatara phương Nam (Sphenodon punctatus punctatus)
Tình trạng bảo tồn

Sắp nguy cấp  (IUCN 3.1)[3] (đảo Brothers)
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Phân ngành (subphylum)Chordata
Lớp (class)Reptilia
Bộ (ordo)Rhynchocephalia
Họ (familia)Sphenodontidae
Chi (genus)Sphenodon
Gray, 1831
Loài điển hình
Sphenodon punctatus
Evans, 1980
Phạm vi phân bố tại New Zealand (đỏ)
Phạm vi phân bố tại New Zealand (đỏ)
Phạm vi phân bố hiện nay của tuatara (đen):[4][5][6] Hình tròn tượng trưng cho tuatara đảo North, và hình vuông cho tuatara đảo Brothers. Ký tự có thể tượng trưng cho đến 7 hòn đảo.
Phạm vi phân bố hiện nay của tuatara (đen):[4][5][6] Hình tròn tượng trưng cho tuatara đảo North, và hình vuông cho tuatara đảo Brothers. Ký tự có thể tượng trưng cho đến 7 hòn đảo.
Loài
  • S. punctatus
    (Gray, 1842) (conserved name)
  • S. diversum
    Colenso, 1885
Danh pháp đồng nghĩa
  • Sphaenodon
    Gray, 1831 (tên bị bác bỏ)
  • Hatteria
    Gray, 1842 (tên bị bác bỏ)
  • Rhynchocephalus
    Owen, 1845 (tên bị bác bỏ)

Tuatara có màu xám hay nâu xanh, đạt chiều dài 80 cm (31 in) từ mõm đến chóp đuôi và nặng đến 1,3 kg (2,9 lb)[11] với một dãy gai trên lưng, đặc biệt nổi bật ở con đực. Bộ răng của chúng, gồm hai hàng răng nhọn hàm trên chồng lên một hàng răng hàm dưới, là độc nhất trong các động vật. Chúng có thể nghe, tuy không có tai ngoài, và có một số nét độc đáo ở bộ xương được lưu giữ từ . Dù tuatara hay được gọi là "hóa thạch sống", nghiên cứu giải phẫu cho thấy chúng đã thay đổi một cách đáng kể từ thời Đại Trung Sinh.[12][13][14] Khi lập bản đồ bộ gen, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng chúng có từ 5 đến 6 tỉ cặp cơ sở trong trình tự axit nucleic.[15]

Sphenodon punctatus đã được pháp luật bảo vệ từ năm 1895.[16][17] Loài thứ hai, S. guntheri, được công nhận 1989[11] song vào năm 2009, nó được tái phân loại làm một phân loài.[18][19] Tuatara, như nhiều động vật bản địa New Zealand, bị đe dọa bởi sự mất môi trường sống và các loài ngoại lai, như chuột lắt (Rattus exulans). Chúng từng biến mất trên hai đảo chính, được bảo tồn chỉ trên 32 đảo ngoài khơi,[9] cho tới năm 2005, khi một số cá thể được thả vào khu cư trú Karori.[20]

Tham khảo

Tài liệu

Liên kết ngoài