Tổng cục Kỹ thuật, Quân đội nhân dân Việt Nam

Cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng Việt Nam

Tổng cục Kỹ thuật trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng tổ chức, quản lý, nghiên cứu đảm bảo vũ khí và phương tiện, trang bị kỹ thuật chiến đấu cho các quân, binh chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam.[1][2]

Tổng cục Kỹ thuật
Quân đội Nhân dân Việt Nam
Quốc gia Việt Nam
Thành lập10 tháng 9 năm 1974; 49 năm trước (1974-09-10)
Phân cấpTổng cục (Nhóm 3)
Nhiệm vụLà cơ quan kỹ thuật đầu ngành
Bộ phận của Bộ Quốc phòng
Bộ chỉ huySố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
Khẩu hiệuChủ động, Sáng tạo, Tự lực, Tự cường
Lễ kỷ niệmngày 10 tháng 9 năm 1974
Chỉ huy
Chủ nhiệm Trần Minh Đức
Chính ủy Trần Duy Hưng

Đinh Đức ThiệnChủ nhiệm đầu tiên
Chỉ huy nổi bậtCác tướng lĩnh tiêu biểu:

Đinh Đức Thiện

Hoàng Văn Thái

Trương Khánh Châu

Nguyễn Hoa Thịnh

Nguyễn Mạnh Đẩu

Lịch sử hình thành

Ngày đầu thành lập

Ngày 10 tháng 9 năm 1974, theo Nghị quyết của Quân ủy Trung ương (số 39/QUTW ngày 5 tháng 4), Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 211/CP thành lập Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng với nhiệm vụ giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các công tác quản lý, bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang, nghiên cứu KHKT quân sự và trực tiếp quản lý các xí nghiệp quốc phòng. Trong đó, Tổng cục có biên chế gồm: Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, Cục Quản lý xe máy, Cục Quản lý vũ khí-khí tài-đạn dược, Cục Quản lý kỹ thuật-sản xuất, Cục Quản lý xí nghiệp, các phòng quản lý trang bị khí tài đặc thủng, vật tư, tài vụ và Văn phòng, Viện thiết kế, Viện kỹ thuật quân sự, các trường đào tạo cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật, các xí nghiệp sản xuất quốc phòng. Trung tướng Đinh Đức Thiện đảm nhiệm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật với các phó chủ nhiệm: Trần Sâm, Trần Đại Nghĩa, Vũ Văn Đôn, Nguyễn Văn Tiên.[3]

Ngày 14 tháng 9 năm 1974, thực hiện kế hoạch về sản xuất bổ sung vũ khí, trang bị kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu bức thiết của chiến trường miền Nam. Tổng cục Kỹ thuật tổ chức Hội nghị bàn về chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện. Đảng ủy Tổng cục tập trung bàn biện pháp sản xuất các loại súng bộ binh, đạn và súng cối, đạn pháo, pháo. Tổng cục đã tổ chức lực lượng đi thu hồi nguyên liệu, vật tư ở các tỉnh phía Bắc, ở chiến trường miền Nam, bảo đảm cho việc sản xuất, phục hồi.[4] Bộ Chính trị ra Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ công tác quân sự năm 1975-1976, Bộ Quốc phòng trong đó có Tổng cục Kỹ thuật xác định nhiệm vụ bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ cho các chiến trường và các đơn vị chiến đấu, sẵn sàng chiến đầu ở miền Bắc. Chú trọng xây dựng cơ quan, cơ sở lớn mạnh về mọi mặt.[5]

Trong Chiến dịch Tây Nguyên và Nam Trung Bộ

Ngày 10 tháng 1 năm 1975, thành lập Trung đoàn Ô tô vận tải (T255A). Tổng cục Kỹ thuật điều trang bị, vật chất cho Đoàn T255A, khoảng 1000 người. Ngày 25 tháng 1 năm 1975, Đoàn T255A lên đường vào chiến trường miền Nam gấp rút vận chuyển lực lượng, vũ khí, vật chất, hậu cần chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Nguyên.[6] Những thời gian đầu của năm 1974, khi Tổng cục mới được thành lập, còn gặp nhiều khó khăng nhưng Tổng cục đã hoàn thành nhiệm vụ trên các mặt bảo đảm chi viện cho chiến trường miền NamĐoàn 559; tạo được sự chuyển biến trong việc quản lý trang bị và cơ sở vật chất kỹ thuật; tạo được hệ thống bảo đảm kỹ thuật cho phía trước, bảo đảm được yêu cầu sẵn sàng chiến đấu. Sang năm 1975, Tổng cục tiếp tục đẩy mạnh sản xuất vũ khí, khí tài, đạn dược, giữ gìn tốt trang bị, thúc đẩy mọi mặt công tác.[7] Từ cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 1975, Tổng cục tiếp tục tổ chức các tổ, đội, trạm sửa chữa cơ động khẩn trương hành quân vào chiến trường miền Nam. Các phân đội được trang bị đầy đủ cơ động vào phục vụ Chiến dịch Tây Nguyên. Các tổ, đội, trạm sửa chữa cơ động phối hợp với cơ quan hậu cần kỹ thuật của Mặt trận Tây Nguyên, bảo dưỡng, sửa chữa và đồng bộ các vũ khi, súng, pháo.[8]

Ngày 28 tháng 3 năm 1975, Tiền phương Tổng cục Hậu cần-Tổng cục Kỹ thuật tại Tây Nguyên được thành lập do Đại tá Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật chỉ huy. Tiền phương chỉ đạo các đơn vị kỹ thuật hậu cứ ở Tây NguyênĐoàn 559, chỉ đạo thu hồi và trực tiếp thu hồi trang bị chiến đấu,cơ sở vật chất kỹ thuật của ta và của địch ở Tây Nguyên, theo dõi, chỉ đạo thực hiện kế hoạch đảm bảo trang bị, kỹ thuật cho các đơn vị ở Mặt trận Trị-Thiên-huế phát triển tiến công địch trong chiến dịch giải phóng HuếĐà Nẵng, cho các đơn vị tiến công giải phóng các tỉnh Nam Trung Bộ. Những tháng đầu năm 1975, các cơ quan của Tổng cục liên tiếp cử các đoàn cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật vào chiến trường miền Nam và Tiền phương Tổng cục ở Tây Nguyên để kiện toàn tổ chức cơ quan chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật ở Tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh.[9]

Từ đầu tháng 3 năm 1975, quân và dân Mặt trận Trị-ThiênMặt trận Quân khu 5 đẩy mạnh tiến công địch, với 2 chiến dịch Bắc Hải Vân và Nam Hải Vân. Sau khi giải phong Buôn Ma Thuật, Bộ Tổng Tư lệnh phán đoán địch có thể sẽ co cụm chiến lược. Do đó đã chỉ thị cho Mặt trận Trị-Thiênnhanh chóng tổ chức lực lượng tiến công chia cắt giữa Huế với Đà Nẵng để bao vây cô lập địch. Bộ Chính trị nhận định nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng tiêu diệt Quân đoàn 1 của địch, giải phóng thành phố HuếĐà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ. Thực hiện việc đó, các đơn vị ở hậu phương của Tổng cục tiếp tục tăng cường lực lượng cán bộ, nhân viên kỹ thuật để sửa chữa vũ khí, khí tài, xe máy, xe tăng, xe thiết giáp phục vụ chiến dịch. Khẩn trương huy động lực lượng để thành lập tổ, đội, trạm sửa chữa cơ động chi viện chiến trường Trị-Thiên.[10] Ngày 26 tháng 3 năm 1975, Tổng cục chỉ đạo Đoàn 559 và lực lượng kỹ thâutj của các đơn vị trên địa bàn Quân khu 4, các nhà máy, xí nghiệp ở hậu phương bổ sung lực lượng vũ khí, trang bị cho Quân khu 5Quân khu Trị-Thiên. Ngày 19 tháng 3 năm 1975, ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị sau đó là Huế. Ta thu toàn bộ vũ khí, trang bị cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh khác của địch.[11] Ngày 27 tháng 3 năm 1975, Chủ nhiệm Tổng cục quyết định thành lập Đoàn tiếp quản thu hồi của Tổng cục. Đoàn gồm 20 cán bộ và nhân viên; đã nhanh chóng hành quân vào chiến trường Trị-Thiên-Huế chỉ đạo tiếp quản cơ sở vật chất, thu hồi vũ khí trang bị kỹ thuật ở 3 nơi vừa mới giải phóng.[12]

Sau khi tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Huế ở phía bắc và tỉnh Quảng Ngãi, thị xã Tam Kỳ ở phía nam được giải phóng, Bộ Tổng Tư lệnh lệnh cho Quân đoàn 2Quân khu 5 nhanh chóng tiến công giải phòng Thành phố Đà Nẵng. Ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch được thành lập. Đồng chí Trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh chiến dịch, Thượng tướng Chu Huy Mân làm Chính ủy chiến dịch. Đồng chí Đinh Đức Thiện, Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần làm Chủ nhiệm Hậu cần-Kỹ thuật chiến dịch. Chiến dịch Đà Nẵng diễn biến rất nhanh chóng, Tổng cục phải khẩn trương huy động lực lượng kỹ thuật tại chỗ, kết hợp với điều động gấp cán bộ, nhân viên kỹ thuật, các đội sửa chữa cơ động trên các hướng khác để tập trung bảo đảm kỹ thuật phục vụ các đơn vị tiến công trong hành tiến. Sau 3 ngày tiến công, ngày 29 tháng 3 năm 1975, thành phố Đà Nẵng được giải phóng, khu liên hợp quân sự lớn nhất ở miền Nam của địch bị dập tan.[13] Toàn bộ quân địch ở Đà Nẵng, trong đó Sở Chỉ huy Quân khu 1Quân đoàn 1 của quân đội Sài Gòn bị ta tiêu diệt và làm tan rã. Ta thu toàn bộ vũ khí trang bị và cơ sở vật chất của chúng gồm: 129 máy bay, 179 xe tăng, xe thiết gíáp, 327 khẩu pháo, 47 tàu xuồng, 1084 xe quân sự....[14]

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh

Ngày 8 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Sau đó đổi tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Cơ quan bảo đảm hậu cần-kỹ thuật của chiến dịch được thành lập trên cơ sở lực lượng tiền phương hậu cần-kỹ thuật của các đơn vị và Cục hậu cần-kỹ thuật Miền. Thiếu tướng Đinh Đức Thiện được cử làm Phó Tư lệnh, Thiếu tướng Bùi Phùng là Chủ nhiệm Hậu cần-kỹ thuật chiến dịch. Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh cần gấp một số lượng lớn các loại đạn pháo, chỉ trong thời gian ngắn, Tổng cục đã huy động 300 xe ô tô của các cơ sở ở hậu phương vận chuyển gấp hàng nghìn tấn đạn pháo cớ lớn và phụ tùng, vật tư kỹ thuật vào chiến trường. Đồng thời cử 66 đoàn, gồm hơn 3.000 cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên tăng cường cho các tổ đội, trạm sửa chữa cơ động tham gia phục vụ chiến dịch.[15]

Trong giai đoạn chuẩn bị kỹ thuật cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Tham mưu Tổng cục chỉ đạo các cục chuyên ngành và các đơn vị khẩn trương bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật cho các lực lượng tham gia chiến dịch với chủ trương ưu tiên cho các quân đoàn cơ động, các Quân chủng Phòng không-không quân, Hải quân, các binh chủng... bảo đảm cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương các tỉnh, thành phố xung quanh Sài Gòn-Gia Định. Quân đoàn 1, trước khi tham gia chiến dịch được Cục Quân khí bổ sung 9 cán bộ và 55 nhân viên kỹ thuật. Tổng cục chi viện lực lượng để tổ chức bảo dưỡng, kiểm tra kỹ thuật và sửa chữa 100% vũ khí, khí tài, đạn dược, xe máy, xe tăng, xe thiết giáp của quân đoàn trước khi hành quân vào chiến trường miền Nam. Quân đoàn 2 được tăng cường trạm T153 của Tổng cục, tăng cường 2 đội sửa chữa cơ động, một đội 30 người, cùng các xe công trình, dụng cụ, trực tiếp phục vụ trên hai hướng tiến công của Quân đoàn trong chiến dịch. Quân đoàn 4, được Tổng cục tăng cường Xưởng OX1 và OX2, mỗi đội từ 15 đến 20 cán bộ và nhân viên kỹ thuật.[16] Ngoài ra, Tổng cục còn huy động thêm 570 ô tô của các nhà máy, xí nghiệp ở hậu phương tham gia vận chuyển vũ khí trang bị kỹ thuật, vật chất hậu cần cơ động theo các hướng bảo đảm trực tiếp cho các đơn vị trong chiến dịch.

Những ngày đầu và giữa tháng 4 năm 1975, Tổng cục tiếp tục tổ chức các đoàn vận chuyển vật tư trang bị, vật chất, hậu cần và lực lượng sửa chữa cơ động vào tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Cục Hậu cần tích cực chuẩn bị đầy đủ lương thực, thực phẩm, cơ số thuốc và dụng cụ y tế bảo đảm cho lực lượng của Tổng cục và các đơn vị phối thuộc. Cục Quản lý xe cử 2 đoàn vào giao 43 xe vận tải và 62 lái xe bổ sung cho chiến trường Nam Bộ.... Sau Chiến dịch Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, ta thu được số lượng lớn pháo 105mm, 155mm của địch, nhưng hầu hết bị địch phá hủy lớp trước khi rút chạy.[17] Trước tình hình đó, Tổng cục kịp thời chỉ đạo Cục Quản lý xe, Cục Quân giới cấp bổ sung 100 bộ lốp ô tô "Giải phóng" để thay thế lốp pháo 105mm, 20 bộ lốp xe ỦRAL để thay thế lốp pháo 155mm. Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Tổng cục thành lập Tiền phương Tổng cục Kỹ thuật ở phía Nam, do Đại tá Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Tổng cục phụ trách.[18] Thời gian này, nhu cầu cán bộ rất lớn và khẩn trương nên Tổng cục đã điều động 811 cán bộ đi chiến trường, 59 cán bộ cho các cơ sở miền Bắc.

Ngày 25 tháng 4 năm 1975, năm cánh quân chủ lực, gồm 4 quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương Quân đoàn) với khối lượng binh khí kỹ thuật rất lớn gồm: 516 khẩu pháo mặt đất, 550 tên lửa phòng không, phi đội máy bay Ả37, 320 xe tăng và xe thiết giáp, 1.600 xe công trình, hơn 10.000 xe vận tải, 60.000 tấn vật chất, cùng các đơn vị chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương đã cơ động áp sát thành phố Sài Gòn-Gia Định. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi, Tổng cục đã kịp thời chỉ đạo các chuyên ngành, cơ quan, đơn vị kỹ thuật khẩn trương tiếp quản cơ sở kỹ thuật, thu hồi vũ khí trang bị của địch.[19]

Những năm đầu thống nhất đất nước

Từ tháng 5 năm 1975, Tổng cục tổ chức, chỉ đạo và hướng dẫn các đơn vị tiếp quản cơ sở kỹ thuật, thu hồi vũ khí trang bị của ta và của địch ở chiến trường miền Nam. Tổng cục cử các Đoàn vào thu hồi. Sau ngày 1 tháng 5 năm 1975, Tổng cục tiếp nhận 2.600 người trở lại làm việc tại các cơ sở ở phía Nam, góp phần sửa chữa bảo dưỡng, đồng bộ vũ khí trang bị kỹ thuật hệ 2, cấp phát, bổ sung và đưa vào dự trữ tại các kho của Tổng cục.[20] Đầu tháng 6 năm 1975, số lượng vũ khí, đạn dược tồn kho trên truyến chi viện chiến lược đường Trường Sơn vẫn còn nhiều, Tổng cục đã khảo sát và lập phương án xây dựng các kho dự trữ vũ khí, trang bị kỹ thuật ở Tây Nguyên, Quảng Trị, Huế để từng bước hình thành hệ thống kho vũ khí trang bị kỹ thuật theo khu vực.[21]

Ngày 23 tháng 8 năm 1975, Tổng cục thành lập Cơ quan đại diện của Tổng cục ở phía Nam, do Đại tá Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Tổng cục phụ trách. Có nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo công tác quản lý vũ khí trang bị kỹ thuật của các quân khu, quân đoàn và cơ sở kỹ thuật trực thuộc Tổng cục ở phía Nam. Sau một năm, Tổng cục đã thu hồi đưa về kho chiến lược hơn 43.000 tấn vũ khí, khí tài, đạn dược, đưa đi sửa chữa hơn 3.000 xe ô tô, 5.000 cụm máy.... Trong thời gian ngắn, Tổng cục và các đơn vị phía Nam đã tiếp quản nhiều cơ sở kỹ thuật, thu hồi lượng lớn vũ khí trang bị của địch, để quản lý tốt đòi hỏi Tổng cục phải đẩy mạnh nghiên cứu khoa học.[22] Cũng trong tháng 8 năm 1975, Tổng cục được Nhà nước giao sản xuất một số mặt hàng kinh tế như: đúc phôi bánh răng, bánh xe gòng, phụ tùng thiết bị mỏ, phụ tùng ô tô, máy nén khí,... đặc biệt là nghiên cứu, sản xuất tiền kim khí, phục vụ nhu cầu lưu hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.[23]

Giữa tháng 1 năm 1976, Chủ nhiệm Tổng cục quyết định đổi tên các phân viện trực thuộc Tổng cục: Viện Thiết kế quân giới thành Phân viện Thiết kế vũ khí, khí tài; Viện Thiết kế và Công nghệ Xe-Máy thành Phân viện Thiết kế Cơ giới; Viện Công nghệ quân giới thành Phân viện Công nghệ. Tổng cục tổ chức thành 24 kho vũ khí, đạn; 9 kho xe-máy; 13 xí nghiệp sửa chữa; 07 Nhà máy. Tổng cục chỉ đạo các xí nghiệp chuyển hướng sang sản xuất phụ tùng, vật tư kỹ thuật, tạo điều kiện để chuyển mạnh sang tổ chức sửa chữa cụm, sửa chữa lớn, cung cấp các cụm máy và phụ tùng vật tư kỹ thuật cho các đơn vị.[24]

Đầu tháng 7 năm 1976, Tổng cục xây dựng phương án tổ chức của Tổng cục trình Bộ Quốc phòng phê duyệt. Phương án chẩn chính gồm có các Cục (Quản lý Vú khí-Khí tài-Đạn dược, Xe-Máy, Tăng-Thiết giáp, Trang bị và Khí tài đặc chủng, Kế hoạch Cộng nghiệp, Kỹ thuật sản xuất, Kế hoạch Vật tư, Lao động tiền lương, Tài vụ, Đào tạo-huấn luyện, Kiến thiết cơ bản); ba vùng bảo đảm (Tây Nguyên, Nam Bộ và miền Bắc); các Viện (Thiết kế vũ khí, Thiết kế cơ giới, Thiết kế cộng nghệ, Thiết kế đo lường); các Trường (Trung học Kỹ thuật, Trung học Kinh tế, Công nhân Kỹ thuật, Bổ túc cán bộ).[25] Ngày 17 tháng 7 năm 1976, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 255/QĐ-QP chuyển Viện Kỹ thuật quân sự và Phòng Quản lý nghiên cứu kỹ thuật thuộc Tổng cục Kỹ thuật về trực thuộc Bộ Quốc phòng.[26] Kết hợp với việc chấn chỉnh tổ chức, Tổng cục ra Chỉ thị về công tác quản lý và bảo vệ kho. Sau chiến tranh, một khối lượng lớn trang bị, vũ khí mà ta thu được của địch đó là nguồn dự trữ rất quý để bảo vệ Tổ quốc trong thời bình. Vì vậy, Tổng cục chỉ đạo toàn quân thực hiện tổ chức kiểm tra, chấn chỉnh công tác nhà kho, giữ gìn bảo quản, rà soát số lượng, chất lượng việc coi giữ bảo quản.[27]

Chiến tranh biên giới Tây Nam

Từ đầu năm 1977, Lực lượng phản động Pôn-pốt, Iêng-xa-ri được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn đã tiến hành các hoạt động quân sự xâm lược lãnh thổ nước ta. Chúng huy động một sư đoàn chủ lực tiến công các đồn biên phòng và 13 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Để bảo vệ biên giới phía Tây Nam, Tổng cục Kỹ thuật xác định bảo đảm đầy đủ, kịp thời và đồng bộ vũ khí trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang các tỉnh biên giới Tây Nam sẵn sàng chiến đấu.[28]

Đến hết tháng 7 năm 1977, Tổng cục giao cho Cục Quản lý Vũ khí-Khí tài-Đạn dược tổ chức xong 2 trạm sửa chữa của Quân đoàn 4, củng cố xây dựng các trạm xưởng của quân khu và bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Nhanh chóng tạo nguồn dự trữ vũ khí, đạn tại các kho của Cục ở phía Nam, chuẩn bị đủ vật tư, phụ tùng và bộ phận thay thế vũ khí, khí tài. Do nhu cầu sử dụng vũ khí, khí tài ở biên giới Tây Nam đến hết năm 1977 đã hết 2.500 tấn, chiếm 73% khối lượng đạn của các đơn vị mang theo nên năm 1978, lượng cấp phát cho chiến đấu là rất lớn, đến hết tháng 9 năm 1978 là 10.000 tấn.[29] Từ tháng 5 năm 1978, Tổng cục tiếp nhận khối lượng lớn vũ khí trang bị trong Kế hoạch viện trợ VT78 của Liên Xô và Tổng cục đã chi viện ngay cho chiến trường ở biên giới Tây Nam. (16.000 tấn vũ khí, đạn dược, 88 tấn phụ tùng, dự trữ ở phía bắc 7.600 tấn).[30]

Từ tháng 12 năm 1977, Tổng cục thành lập Chỉ huy Tiền phương Tổng cục Kỹ thuật trong Bộ Tư lệnh Tiền phương Bộ Quốc phòng ở biên giới Tây Nam. Lúc đó, chỉ huy Tiền phương của Tổng cục là Đại tá Nguyễn Văn Tiên. Đến tháng 4 năm 1978, Chỉ huy Tiền phương Tổng cục được chuyển thành Sở chỉ huy Tiền phương Tổng cục Kỹ thuật ở phía Nam nhằm trực tiếp chỉ đạo bảo đảm trang bị, kỹ thuật cho các đơn vị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Tiếp đó, Tổng cục thành lập Trung đoàn Vận tải 32 phục vụ thu hồi, vận chuyển vũ khí trang bị về kho, nhà máy, trạm, xưởng để bảo quản, sửa chữa và đồng bộ, vận chuyển vũ khí đạn dược đến các đơn vị tuyến trước. Ngoài ra, Tổng cục còn tổ chức 12 đội sửa chữa cơ động để sửa chữa vũ khí trang bị.[31] Tháng 10 năm 1978, chiến dịch tổng phản công giải phóng Cam-pu-chia diễn ra. Theo đó, Tổng cục phải chuẩn bị 1.000 xe ô tô vận tải, 500 xe tăng và xe thiết giáp, bổ sung cơ số đạn, vũ khí cho các đơn vị tham gia phản công. Tính chung ra, Tổng cục đã cấp phát bổ sung gần 52.000 súng bộ binh, 160 khẩu pháo, cối, DKZ, hơn 19.000 tấn đạn, bom mìn các loại. Ngày 26 tháng 12 năm 1978, ta phối hợp với Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia tổng tấn công và nổi dậy trong cả nước. Cho đến ngày 7 tháng 1 năm 1979, đã giải phóng được thành phố Phnom Penh theo đúng kế hoạch.[32]

Kiện toàn tổ chức

Ngày 26 tháng 10 năm 1978, thành lập Trường Hạ sĩ quan Kỹ thuật trên cơ sở sáp nhập Trường Sĩ quan kỹ thuật với Trường Sơ cấp kỹ thuật và được đặt tên là Trường Kỹ thuật Vin-hem-Pích (nay là trường Đại học Trần Đại Nghĩa). Ngày 26 tháng 10 năm 1978, thành lập trường Trung cấp kỹ thuật, Trường Trung học Kinh tế, Trường Công nhân kỹ thuật và Trường Bổ túc Cán bộ thuộc Tổng cục. Ngày 16 tháng 12 năm 1978, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 900/QĐ-QP điều Viện Kỹ thuật quân sự trực thuộc Bộ Quốc phòng về trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật.[33]

Ngày 29 tháng 12 năm 1978, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 940/QP quy định tổ chức biên chế của Tổng cục Kỹ thuật gồm 13 Cục (Bộ Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Văn phòng, Quản lý Vũ khí-Khí tài-Đạn dược, Quản lý xe máy, Tăng Thiết giáp, Quản lý xí nghiệp, Quản lý kinh tế, Huấn luyện Đào tạo, Quản lý Khoa học kỹ thuật, Cung ứng Vật tư, Cơ quan đại diện ở phía Nam); 1 viện, 4 phân viện, 8 trường, 28 xí nghiệp, 2 trung đoàn vận tải, 5 phòng ban trực thuộc Tổng cục (Phòng Tài vụ Vật giá, Ban Thanh tra, Văn phòng Ủy ban Kiểm tra kỷ luật, Phòng Quân pháp, Viện kiểm sát quân sự). Quân số của Tổng cục lục này hơn 70.000 người.[34]

Ngày 24 tháng 2 năm 1979, Bộ Quốc phòng thành lập Cục Kỹ thuật ở các quân khu, quân đoàn, binh chủng; thành lập Phòng Kỹ thuật ở Sư đoàn, Lữ đoàn và tương đương; Ban Kỹ thuật ở trung đoàn và tướng đương.[35] Ngành Kỹ thuật quân đội kiện toàn hệ thống quản lý, chỉ huy, chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật ở 3 cấp (chiến lược là Tổng cục Kỹ thuật, chiến thuật là Cục Kỹ thuật thuộc các quân khu, quân đoàn, binh chủng và chiến dịch là Ban kỹ thuật thuộc sư đoàn...). Sau khi kiện toàn, từ năm 1979, cơ quan Tổng cục gồm (Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục hậu cần, Văn phòng, Cục Quản lý Vũ khí-Khí tài-Đạn dược, Cục Trang bị kỹ thuật đặc chủng, Cục Đơn vị, Cục Kỹ thuật sản xuất, Cục Lao động tiền lương, Cục Kế hoạch Vật tư, Cục huấn luyện, Cục Kiến thiết cơ bản, Viện Kiểm sát, Ban Thanh tra, Ủy ban kiểm tra kỷ luật, Phòng Quân pháp); ở cơ sở gồm (18 xín ghiệp sản xuất, 11 xí nghiệp sửa chữa, đoàn, tổng đội, trung đoàn, kho, viện, phân viện, trường).[36]

Ngày 14 tháng 11 năm 1979, Bộ Quốc phòng chuyển nhiệm vụ chỉ đạo, quản lý bảo đảm trang bị, kỹ thuật các loại xe tăng, thiết giáp từ Bộ Tư lệnh Tăng-Thiết giáp về Tổng cục và tiến hành đổi tên Cục Đơn vị thành Cục Tăng-Thiết giáp trực thuộc Tổng cục.[37] Từ ngày 1 tháng 1 năm 1980, Trường Đại học Kỹ thuật quân sự là đầu mối trực thuộc Tổng cục, đến tháng 1 năm 1982, lại trở thành đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Ngày 28 tháng 2 năm 1981, Bộ Quốc phòng thành lập Trường Sĩ quan Chỉ huy kỹ thuật ô tô (trên cơ sở trường Trung cấp Kỹ thuật xe máy) và Trường Sĩ quan kỹ thuật Vũ khí Đạn (trên cơ sở Trường Trung cấp Kỹ thuật quân khí).[38]

Ngày 29 tháng 4 năm 1981, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 120/QĐ kiện toàn tổ chức biên chế theo đó, Tổng cục bao gồm: 13 Cục và tương đương, 5 Tổng kho, 18 Kho trực thuộc Cục chuyên ngành, 30 Nhà máy, 8 Viện và trung tâm, 13 Trường, Đoàn 387.

Tháng 3 năm 1984, sau khi kiện toàn tổ chức, Tổng cục có 9 cục và cơ quan tương đương, 11 phòng ban trực thuộc, 8 trường, 5 viện nghiên cứu, 2 trung tâm, 11 nhà máy sửa chữa, 18 nhà máy sản xuất, 6 đơn vị vận tải.

Từ ngày 31 tháng 10 đến 2 tháng 11 năm 1986, Đảng ủy Quân sự Trung ươngBộ Quốc phòng triệu tập Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu, Thủ trưởng các Tổng cục và cơ quan Bộ Quốc phòng họp bàn về việc kiện toàn tổ chức của Tổng cục; chuyển cơ chế quản lý chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật theo cấp sang cơ chế quản lý chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật theo chuyên ngành; thành lập Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng để quản lý, chỉ đạo các Nhà máy sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật.

Thời kỳ đổi mới đất nước (1987-1993)

Sau tháng 3 năm 1989, khi Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng được thành lập và nhận chức năng quản lý các xí nghiệp quốc phòng từ Tổng cục Kỹ thuật, sau đó gọi là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế.

Ngày 24 tháng 4 năm 1989, Đại tướng Lê Đức Anh, Bộ truởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 130/QĐ-QP quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Kỹ thuật từ đây Tổng cục thực hiện theo cơ chế mới là cơ quan quản lý, chỉ huy, chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật trong toàn quân của Quân đội. Theo đó, tổ chức của Tổng cục gồm (Cục Kế hoạch bảo đảm kỹ thuật, Cục Quản lý Khoa học Kỹ thuật, Cục Tổ chức cán bộ huấn luyện, Văn phòng, Trung tâm thông tin khoa học kỹ thuật quân sự).

Ngày 8 tháng 11 năm 1989, thành lập Phòng Điều tra hình sự thuộc Tổng cục.

Xây dựng chính quy hiện đại (1993-nay)

Ngày 15 tháng 5 năm 1993, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định về tổ chức, biên chế cơ quan Tổng cục. Sau đó Chủ nhiệm Tổng cục quyết định thành lập các phòng trực thuộc Tổng cục (Phòng Quản lý khoa học và công nghệ, Phòng Hậu cần, Thanh tra) và các phòng ban trực thuộc các cơ quan của Tổng cục.

Ngày 20 tháng 8 năm 1994, Bộ Tổng Tham mưu quyết định thành lập Phòng Kinh tế, Cục Hậu cần trực thuộc Tổng cục và điều chuyển nguyên trạng các đơn vị về trực thuộc Tổng cục (Trường Sĩ quan kỹ thuật Vinhempich, Xí nghiệp Liên hợp Z75

Ngày 28 tháng 9 năm 1995, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định hợp nhất Trường Đào tạo lái xe với Trường Trung cấp kỹ thuật ô tô thành Trường Trung học kỹ thuật xe máy trực thuộc Cục Quản lý Xe-Máy.

Ngày 30 tháng 5 năm 2003, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Phòng Quản lý xí nghiệp sửa chữa trực thuộc Tổng cục.

Ngày 8 tháng 6 năm 1993, Bộ Quốc phòng ban hành Điều lệ công tác kỹ thuật xe máy Quân đội nhân dân Việt Nam và Quy định về kho súng, pháo, khí tài lục quân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày 22 tháng 6 năm 1994, Đảng ủy Tổng cục quyết định chọn tám chữ vàng truyền thống của Tổng cục là "Chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường".

Tháng 7 năm 1995, Tổng cục tổ chức Hội nghị chất lượng vũ khí trang bị kỹ thuật toàn quân lần thứ nhất. Tháng 10 năm 1995, lại tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học công nghệ trong 10 năm 1986-1995. Tháng 3 năm 1996, Tổng cục tổ chức Hội nghị bảo đảm vũ khí đạn dược cho quần đảo Trường Sa.

Ngày 1 tháng 3 năm 1996, Bộ Quốc phòng ban hành Điều lệ công tác kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 3 năm 1996, Tổng cục tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ Tổng cục nhiệm kỳ 1996-2000. Bầu ra Ban Chấp hành đảng bộ Tổng cục gồm 13 đồng chí.

Ngày 14 tháng 6 năm 1996, Chủ nhiệm Tổng cục quyết định điều nguyên trạng Viện kỹ thuật ô tô thuộc Cục Quản lý Xe máy về trực thuộc Tổng cục. Tháng 12 năm 1996, Tổng cục tổng kết công tác kỹ thuật quân sự 5 năm 1991-1996.

Tháng 8 năm 1998, Bộ Tổng Tham mưu quyết định đổi tên Trung tâm Thông tin khoa học kỹ thuật thành Phòng Thông tin khoa học công nghệ và môi trường trực thuộc Tổng cục. Tháng 5 năm 1999, Bộ Quốc phòng quyết định đổi tên Cục Kế hoạch thành Bộ Tham mưu trực thuộc Tổng cục.

Năm 1999, Bộ Quốc phòng thành lập Cục Kỹ thuật Binh chủng trực thuộc Tổng cục

Tháng 12 năm 2000, Đại hội Đảng bộ Tổng cục nhiệm kỳ 2001-2005 tổ chức thành công và bầu Ban chấp hành Đảng bộ Tổng cục gồm 13 đồng chí. Tháng 7 năm 2001, Chủ nhiệm Tổng cục quyết định điều nguyên trạng Trung tâm 334/Cục Quân khí về trực thuộc Bộ Tham mưu Tổng cục.

Ngày 29 tháng 10 năm 2003, Bộ Quốc phòng ban hành Tiêu chuẩn chức vụ cán bộ Tổng cục Kỹ thuật.

Tháng 10 năm 2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ Tổng cục nhiệm kỳ 2005-2010 tổ chức thành công và bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ Tổng cục gồm 15 đồng chí.

Tháng 12 năm 2005, Tổng cục tổ chức thành công Hội nghị kỹ thuật toàn quân năm 2005.

Tháng 8 năm 2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ Tổng cục nhiệm kỳ 2010-2015 tổ chức thành công và bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ Tổng cục gồm 17 đồng chí.

Ngày 10 tháng 9 năm 2014, Tổng cục tổ chức thành công lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Tổng cục (1974-2014).

Lãnh đạo hiện nay

  1. Chủ nhiệmː Trung tướng Trần Minh Đức
  2. Chính ủyː Trung tướng Trần Duy Hưng
  3. Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởngː Thiếu tướng Phùng Ngọc Sơn
  4. Phó Chủ nhiệmː Thiếu tướng Đoàn Minh Định
  5. Phó Chủ nhiệm: Thiếu tướng Hà Tuấn Quân
  6. Phó Chủ nhiệmː Thiếu tướng Đỗ Anh Tuấn
  7. Phó Chính ủyː Thiếu tướng Vũ Văn Cường

Tổ chức

TTĐơn vịNgày thành lậpTương đươngĐịa chỉGhi chú
1Bộ Tham mưu10.9.1974
(49 năm, 219 ngày)
Quân đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
2Cục Chính trị10.9.1974
(49 năm, 219 ngày)
Quân đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
3Cục Quân khí16.9.1951
(72 năm, 213 ngày)
Quân đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
4Cục Xe-Máy18.4.1955
(68 năm, 364 ngày)
Quân đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
5Cục Kỹ thuật Binh chủng10.12.1999
(24 năm, 128 ngày)
Quân đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
6Cục Hậu cần20.11.1994
(29 năm, 148 ngày)
Sư đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
7Ủy ban Kiểm tra Đảng10.9.1974
(49 năm, 219 ngày)
Sư đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
8Thanh tra Tổng cục7.11.1976
(47 năm, 161 ngày)
Sư đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
9Phòng Tài chính10.9.1974
(49 năm, 219 ngày)
Lữ đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
10Phòng Điều tra Hình sự8.11.1989
(34 năm, 160 ngày)
Lữ đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
11Phòng Khoa học Quân sự8.6.1993
(30 năm, 313 ngày)
Lữ đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
12Tạp chí Kỹ thuật và Trang bị5.6.2000
(23 năm, 316 ngày)
Lữ đoànSố 5, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
13Viện Kỹ thuật Cơ giới Quân sự14.4.1974
(50 năm, 2 ngày)
Sư đoàn42 Đông Quan, Cầu Giấy, Hà Nội
14Trường Sĩ quan Kỹ thuật Quân sự12.5.1975
(48 năm, 340 ngày)
Sư đoàn189 Nguyễn Oanh, Gò Vấp, Hồ Chí Minh
15Trường Cao đẳng Kỹ thuật Quân sự 125.11.1951
(72 năm, 143 ngày)
Lữ đoànXuân Khanh, Sơn Tây, Hà Nội
16Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung17.10.1979
(44 năm, 182 ngày)
Lữ đoànNguyễn Xiển, Vĩnh Phương, TP.Nha Trang, Khánh Hòa
17Xí nghiệp Liên hợp Z75115.5.1975
(48 năm, 337 ngày)
Sư đoàn18 Phan Văn Trị, Gò Vấp, Hồ Chí Minh
18Nhà máy Z1331.1.1969
(55 năm, 106 ngày)
Lữ đoànNgọc Thụy, Long Biên, Hà Nội
19Nhà máy Z15125.5.1950
(73 năm, 327 ngày)
Lữ đoànXuân Khanh, Sơn Tây, Hà Nội
20Nhà máy Z15320.4.1968
(55 năm, 362 ngày)
Lữ đoàn164 Ga Đông Anh, Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội
21Công ty Phương Nam1.9.1991
(32 năm, 228 ngày)
Lữ đoàn157 Võ Thị Sáu, Quận 3, Hồ Chí Minh
22Xí nghiệp Z45Lữ đoàn

Khen thưởng

Hệ thống cơ quan Kỹ thuật trong Quân đội

Bài chi tiết: Ngành Kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam

  • Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng.
  • Cục Kỹ thuật thuộc các Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, Tổng cục và tương đương.
  • Phòng Kỹ thuật thuộc các Sư đoàn, Lữ đoàn, Vùng Cảnh sát biển, Bộ CHQS tỉnh, thành phố trực thuộc TW, Bộ CHBP tỉnh, thành phố trực thuộc TW và tương đương.
  • Ban Kỹ thuật thuộc các Trung đoàn, Ban chỉ huy quân sự quận, huyện, thị xã và tương đương.

Chủ nhiệm Tổng cục qua các thời kỳ

TTHọ tên
Năm sinh-năm mất
Thời gian đảm nhiệmCấp bậc tại nhiệmChức vụ cuối cùngGhi chú
1Đinh Đức Thiện
(1914-1986)
1974-1976Thiếu tướng (1974)Thượng tướng (1986),
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (1982-1987)
2Lê Văn Tri
(1920-2006)
1977-1987Trung tướng (1982)Nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân
3Hoàng Văn Thái
(1920-2000)
1987-1988Trung tướng (1982)Quyền Chủ nhiệm Tổng cục
4Phan Thu
(1931-)
1988-1989Trung tướng (1990)Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (1992-1997)
5Đào Đình Luyện
(1929-1999)
1989-1991Trung tướng (1983)
Thượng tướng (1988)
Tổng Tham mưu trưởng (1991-1999)
6Trương Khánh Châu
(1934-2019)
1991-1996Thiếu tướng (1988)
Trung tướng (1992)
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (1996-2002)Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (1973)
7Nguyễn Hoa Thịnh
(1940-2022)
1996-2001Thiếu tướng (1995)
Trung tướng (2000)
Chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam (2007-2012)Giáo sư (1991)
Nhà giáo Nhân dân (1990)
8Đỗ Đức Pháp
(1941-2019)
2001-2005Thiếu tướng (1999)Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật
9Trương Quang Khánh
(1953-)
2005-2007Trung tướng (2007)
Thượng tướng (2011)
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (2009-2016)
10Nguyễn Châu Thanh
(1954-)
2008-2015Thiếu tướng (2006)
Trung tướng (2010)
Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật
11Lê Quý Đạm
(1960-)
2015-2020Thiếu tướng (2010)
Trung tướng (2015)
Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật
12Trần Minh Đức
(1966-)
2020-nayThiếu tướng (2017)
Trung tướng (2021)

Chính ủy, Phó Chủ nhiệm Tổng cục về Chính trị qua các thời kỳ

TTHọ tên
Năm sinh-năm mất
Thời gian đảm nhiệmCấp bậc tại nhiệmChức vụ cuối cùngGhi chú
1Đinh Đức Thiện
(1914-1986)
1974-1975Thiếu tướng (1974)Trung tướng (1984), Thượng tướng (1986)
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (1982-1986)
Bí thư Đảng ủy, Chủ nhiệm Tổng cục
2Lê Văn Tri
(1920-2006)
1977-1985Thiếu tướng (1974)

Trung tướng (1982)

Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtBí thư Đảng ủy Tổng cục
3Hoàng Văn Thái
(1920-2000)
1985-1989Trung tướng (1980)Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật (1987-1989)Bí thư Đảng ủy Tổng cục
4Lương Hữu Sắt
(1927-2018)
1989-1995Trung tướngPhó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtBí thư Đảng ủy Tổng cục
5Hoàng Anh Tuấn
(1944-)
1995-2005Thiếu tướng (1998)Phó Chủ nhiệm Tổng cục về Chính trịBí thư Đảng ủy Tổng cục (1994-2005)
6Nguyễn Mạnh Đẩu
(1948-)
2005-2007Trung tướng (2005)Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật
7Nguyễn Hữu Thìn
(1951-)
2007-2011Thiếu tướng (2004)
Trung tướng (2008)
Chính ủy Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2006-2007)
8Hà Minh Thám
(1955-)
2011-6.2015Trung tướng (2011)Chính ủy Tổng cục Kỹ thuậtAnh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (1989)
9Nguyễn Hữu Chính
(1959-)
6.2015-3.2019Trung tướng (2017)Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật
10Trần Duy Hưng
(1964-)
3.2019-nayThiếu tướng (2016)
Trung tướng (2020)
Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật

Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng qua các thời kỳ

TTHọ tên
Năm sinh-năm mất
Thời gian đảm nhiệmCấp bậc tại nhiệmChức vụ cuối cùngGhi chú
1Trần Sâm
(1918-2009)
1974-1975Trung tướng (1974)Thượng tướng (1986)
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Phó Bí thư Đảng ủy Tổng cục (1974-1975)
2Phạm Như Vưu
(1920-)
1978-1985Đại tá
Thiếu tướng
3Phan Thái
(1928-)
1985-1987Thiếu tướng (1984)
4Phạm Thanh Liêu1987-1994Đại táCục trưởng Cục Kế hoạch
5Trần Ngọc Anh1994-2000Thiếu tướngPhó Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng (2001-2005)Nguyên Chủ nhiệm Kỹ thuật Quân đoàn 3
6Nghiêm Sỹ Chúng
(1945-2017)
2000-2005Thiếu tướng (2001)Nguyên Chủ nhiệm Kỹ thuật Quân khu 1
7Nguyễn Châu Thanh
(1954-)
2005-2007Thiếu tướngTrung tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật, Quân khu 7
8Phạm Dũng Tiến
(1956-)
2007-2016Thiếu tướng (2009)Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng Tổng cục Kỹ thuậtPhó Giáo sư, Tiến sĩ, Nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật Binh chủng
9Nguyễn Văn Ninh
(1959-)
2016-2019Thiếu tướng (2009)Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân
10Trần Minh Đức
(1966-)
2019-2020Thiếu tướng (2018)Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật
11Phùng Ngọc Sơn
(1968-)
2020-nayThiếu tướng (2016)Nguyên Tư lệnh Binh chủng Công binh

Phó Chủ nhiệm Tổng cục qua các thời kỳ

TTHọ tên
Năm sinh-năm mất
Thời gian đảm nhiệmCấp bậc tại nhiệmChức vụ cuối cùngGhi chú
1Trần Đại Nghĩa
(1913-1997)
1974-1987Thiếu tướng (1948)Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam
2Nguyễn Văn Tiên
(1924-2003)
1974-1987Trung tướngTư lệnh Quân chủng PKKQ
3Vũ Văn Đôn1974-1987Thiếu tướng
4Hoàng Văn Thái
(1915-1986)
1975-1987Trung tướngBí thư Đảng ủy Tổng cục (1985-1987)
5Bùi Đức Tạm
(1923-)
1976-1987Thiếu tướng
6Nguyễn Duy Thái
(1914-1995)
1978-1987Thiếu tướng (1985)Thứ trưởng Bộ Cơ khí luyện kim
Thứ trưởng Bộ Lao động
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần
7Trần Thanh Từ
(1922-2005)
1981-1989Trung tướng (1986)
8Lê Văn Chiểu
(1926-)
1981-1987Thiếu tướng (1984)Phó Chủ nhiệm Tổng cục CNQP
9Lương Hữu Sắt
(1927-2018)
1981-1987
1989-1994
Trung tướngBí thư Đảng ủy Tổng cục (1989-1993)
10Nguyễn Quỳ
(1930-2020)
1989-1994Thiếu tướng
11Lê Mỹ Huyên
(1939-2018)
1993-2002Thiếu tướng (1994)Quyền chủ nhiệm Tổng cục (12/1996-1/1998)
12Đỗ Đức Pháp
(1941-2019)
1994-2001Thiếu tướng (1999)Nguyên Cục trưởng Cục Quân khí
13Võ Minh Cẩm
(1948-)
2000-2008Thiếu tướng (2003)Nguyên Phó Chủ nhiệm Kỹ thuật Quân chủng PKKQ
14Đinh Danh Nghiêm
(1947-)
2000-2008Thiếu tướng (2003)Nguyên Cục trưởng Cục Quân khí (1994-2000)
15Bế Quốc Hùng
(1949-)
2004-2010Chuẩn Đô đốc (2003)Nguyên Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân
16Nguyễn Minh Đức
(1951-)
2007-2011Thiếu tướng (2006)Nguyên Cục trưởng Cục Quân khí (2000-2007)
17Vũ Xuân Bình
(1956-)
2008-2016Thiếu tướng (2009)Nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật, Quân chủng PKKQ
18Đoàn Nhật Tiến
(1955-)
2009-2010Thiếu tướng (2010)Trung tướng (2014), Giám đốc Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự (2010-2015)Nguyên Phó Tham mưu trưởng TCKT (2007-2009)
19Nguyễn Quang Bắc
(1952-)
2010-2013Thiếu tướng (2007)Nguyên Giám đốc Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự
20Nguyễn Công Thành
(1956-)
2010-2016Thiếu tướng (2010)[41][42] Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật QCHQ
21Hồ Công Tráng
(1958-)
2013-2018Thiếu tướng (2013)[43][44] Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật, Quân khu 7 (2005-2013)
22Trịnh Đình Tư
(1957-)
2013-2017Thiếu tướng (2013)[45][46][47] Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Phó Tham mưu trưởng TCKT(2010-2013)
23Võ Tá Quế
(1960-)
2016-2020Thiếu tướng (2016)Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật, Quân chủng PKKQ
24Phạm Văn Khánh
(1961-)
2017-2021Thiếu tướng (2014)Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Cục trưởng Cục Xe-Máy (2014-2017)
25Hoàng Tiến Tùng
(1962-)
2018-2022Thiếu tướng (2019)Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Phó Tham mưu trưởng TCKT (2015-2018)
26Đoàn Minh Định
(1966-)
2020-nayThiếu tướng (2020)Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Phó Tham mưu trưởng TCKT
27Hà Tuấn Quân
(1968-)
2020-nayThiếu tướng (2020)Nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật, Quân khu 9

Phó Chính ủy qua các thời kỳ

TTHọ tên
Năm sinh-năm mất
Thời gian đảm nhiệmCấp bậc tại nhiệmChức vụ cuối cùngGhi chú
1Nguyễn Hữu Thìn[48]
(1951-)
2006-2007Thiếu tướng (2004)
Trung tướng (2008)
Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2007-2011)Nguyên Phó Tư lệnh về chính trị Quân khu 2(2004-2006)
2Hoàng Bằng
(1956-)[49]
2007-2010Thiếu tướng (2009)
Trung tướng (2014)
Chính ủy Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự (2010-2016)Nguyên Chủ nhiệm Chính trị Tổng cục CNQP
3Hà Minh Thám[50]
(1955-)
2010-2011Thiếu tướng (2007)
Trung tướng (2011)
Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2011-2015)Nguyên Chính ủy Quân đoàn 3(2007-2011)
4Thái Xuân Dương
(1953-)
2011-2013Thiếu tướng (2009)Nguyên Cục trưởng Cục Chính trị, TCKT (2004-2011)
5Nguyễn Hữu Chính
(1959-)
2013-2015Thiếu tướng (2013)
Trung tướng (2017)
Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2015-2019)
Bí thư Đảng ủy Tổng cục (2015-2019)
6Phạm Văn Lập
(1959-)
2015-2019Thiếu tướng (2014)Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Cục trưởng Cục Chính trị, TCKT (2013-2015)
7Hồ Trọng Đào
(1959-)
2017-2019Thiếu tướng (2013)Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Cục trưởng Cục Chính trị Tổng cục chính trị (2010-2017)
8Lê Thanh Hà
(1962-)
2019-2022Thiếu tướng (2015)Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuậtNguyên Chính ủy Binh chủng Đặc công (2015-2019)[51]
9

Cục trưởng Cục Chính trị qua các thời kỳ

TTHọ tên
Năm sinh-năm mất
Thời gian đảm nhiệmCấp bậc tại nhiệmChức vụ cuối cùngGhi chú
1Trần Đăng Thạch1974-1978Đại tá
2Nguyễn Ly Sơn1978-1985Đại táNguyên Chính ủy Trường Sĩ quan Phòng không
3Nguyễn Ích1985-1990Thiếu tướng
4Đoàn Văn Đắc1990-1993Đại tá
5Hoàng Anh Tuấn
(1944-)
1993-1996Thiếu tướng (1998)Phó Chủ nhiệm về Chính trị TCKT(1996-2004)
6Lê Quang Mưu1996-2001Đại tá
7Lê Văn Lai
(1947-)
2001-2004Đại tá
8Thái Xuân Dương
(1953-)
2004-2011Thiếu tướng (2009)Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2011-2013)
9Nguyễn Hữu Chính
(1959-)
2011-2013Thiếu tướng (2013)
Trung tướng (2017)
Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2015-2019)Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2013-2015)
10Phạm Văn Lập
(1959-)
2013-2015Thiếu tướng (2014)Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2015-2019)
11Trần Duy Hưng
(1964-)
2015-2017Thiếu tướng (2016)Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2019-nay)
12Nguyễn Văn Bình
(1963-)
2017-2019Thiếu tướng (2019)Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật (2019-nay)
13Nguyễn Văn Mỹ
(1965-)
2019-nayThiếu tướng (2019)Nguyên Chính uỷ Cục Quân khí[52]

Các tướng lĩnh khác

TTHọ tên
Năm sinh-năm mất
Cấp bậcChức vụ cuối cùngGhi chú
1Trần Đình NghĩaThiếu tướngCục trưởng Cục Xe-Máy (1990-1996)
2Trần Hùng Nam
(1954-)
Thiếu tướng (2011)Cục trưởng Cục Xe-Máy (2008-2014)
3Lê Xuân Phương
(1959-)
Thiếu tướng (2012)Cục trưởng Cục Kỹ thuật Binh chủng (2009-2019)
4Trần Trọng Tuấn
(1959-)
Thiếu tướng (2013)Cục trưởng Cục Quân khí (2012-2019)
5Nguyễn Văn Hưng
(1960-)
Thiếu tướng (2014)Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Kỹ thuật Quân sự (2009-2020)[53]
6Dương Xuân Nam
(1964-)
Thiếu tướng (2019)Cục trưởng Cục Xe-Máy (2019-2024)[54]
7Đỗ Đình Phong
(1964-)
Thiếu tướng (2019)Cục trưởng Cục Kỹ thuật Binh chủng (2019-2024)Nguyên Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Kỹ thuật[55]
8Hoàng Đạo Nhật Yên
(1967-)
Thiếu tướng (2019)Cục trưởng Cục Quân khí (2019-nay)

Xem thêm

Chú thích

Liên kết ngoài