Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh

Trường Trung học phổ thông chuyên tại TP. Hồ Chí Minh

Trường Trung học Phổ thông Chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh (tên tiếng Anh là Le Hong Phong High School for The Gifted) là một trường trung học phổ thông công lập tại quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Trường được thành lập năm 1927 và là một trong những trường Trung học đầu tiên được thực dân Pháp thành lập tại Sài Gòn, với tên ban đầu là Trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký (tên gọi này được Pháp đặt ra nhằm ghi danh của Trương Vĩnh Ký, một học giả Việt Nam). Sau năm 1975 thì trường đổi tên thành THPT Chuyên Lê Hồng Phong, theo tên của một trong những Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong
Địa chỉ
Map
235 Nguyễn Văn Cừ, phường 4, quận 5
, ,
Việt Nam
Tọa độ10°45′50″B 106°40′54,5″Đ / 10,76389°B 106,66667°Đ / 10.76389; 106.66667
Thông tin
Tên cũCollège de Cochinchine[4]
Trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký
LoạiTrung học Phổ thông chuyên
Thành lập28 tháng 11 năm 1927; 96 năm trước (1927-11-28)
Mã trường016
Hiệu trưởngPhạm Thị Bé Hiền[1]
Websitehttp://www.thpt-lehongphong-tphcm.edu.vn/vi
Tổ chức và quản lý
Phó hiệu trưởngTrương Thị Lệ Hà[2]

Bùi Thị Bảo Ngọc

Trần Bảo Ngọc

Đây được xem là một trong 5 trường Trung học Phổ thông chuyên có chất lượng giáo dục tốt nhất miền Nam hiện nay.[5][6]

Lịch sử

Hình thành

Sau sự ra đời của trường Collège Chasseloup-Laubat (năm 1874) và trường Collège de Jeunes Filles Indigènes (1915), chính quyền thuộc địa Nam Kỳ mở thêm trường trung học tại Sài Gòn. Năm 1925, kiến trúc sư Hebrard de Villeneuve được giao nhiệm vụ vẽ đồ họa xây cho ngôi trường mới tại Chợ Quán. Ngày 28 tháng 11 năm 1927, Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne ra nghị định thiết lập tại Chợ Quán một phân hiệu tạm thời của Collège Chasseloup Laubat dành cho học sinh người bản xứ lấy tên là Collège de Cochinchine. Phân hiệu này được đặt dưới sự điều hành của Ban Giám đốc Trường Chasseloup Laubat và một giáo sư phụ trách tổng giám thị của phân hiệu.

Trường Petrus Ký lúc xây dựng

Năm 1928, khi các khu trường mới xây dựng xong, ngày 11 tháng 8 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương tạm quyền René Robin ký nghị định số 3116 gồm 6 điều thành lập tại Chợ Quán, kể từ kỳ tựu trường 1928-1929 một trường Cao đẳng Tiểu học Pháp bản xứ, chuyển giao phân hiệu tạm thời với trên 200 học sinh của Collège Chasseloup Laubat nói trên vào trường này, có sáp nhập một hệ Trung học Đệ nhị cấp bản xứ (Lycée). Nhân dịp khánh thành tượng đồng của nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký, Thống đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse chính thức đặt tên trường là Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký. Do đó, trường còn có tên gọi là Pétrus Ký, và tên này được sử dụng trong gần 50 năm.

Hoạt động cổ vũ tinh thần yêu nước

Một góc khuôn viên trường Pétrus Ký

Năm 1940, Câu lạc bộ học sinh trường Pétrus Ký được thành lập. Câu lạc bộ đã tổ chức các hoạt động như văn nghệ, thể thao, cắm trại, với những sinh hoạt rất phong phú, tập hợp được đông đảo học sinh của trường và nhiều trường khác. Cũng tại đây, Lưu Hữu PhướcMai Văn Bộ viết bài hát La Marche des Étudiants, tiền thân của bài Tiếng gọi thanh niên (về sau chế độ Việt Nam Cộng hòa sử dụng trái phép bài hát này để làm quốc ca).

Chỉ sau 1 năm, phong trào bị chính quyền thực dân cấm hoạt động do tuyên truyền các hoạt động yêu nước. Đến năm 1942, học sinh Pétrus Ký theo phong trào của học sinh sinh viên Hà Nội tập hợp nhau lấy tên là đoàn S.E.T (Section Exécution Tourisme). Đoàn S.E.T tổ chức theo kiểu hướng đạo, giáo dục lý tưởng sống lành mạnh, yêu nước, yêu dân tộc đang bị ngoại xâm thống trị và từ ý thức này gợi đến ý thức chống Đế quốc. Trong thời gian này, tại trường cũng có một số giáo sư âm thầm biểu lộ tình cảm yêu nước của mình qua tác phong bài giảng như Phạm Thiều, Lê Văn Chí, Trần Văn Thanh.

Năm 1942, trường di chuyển về trường sở Sư phạm Sài Gòn vì chiến cuộc nhưng không lâu sau lại mở cửa dạy học vào năm ấy tại trường sở cũ. Nhưng đến năm 1945, trường sở bị trưng dụng làm doanh trại của quân đội Nhật Bản. Trường phải dời về khu tiểu học Tân Định và sau đó ngưng hoạt động.

Ngày 1 tháng 4 năm 1946, sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, trường mở cửa dạy lại trong Chủng viện đường Lucien Mossard và đến năm 1947, trở lại hoạt động nơi trường sở hiện tại.

Từ năm 1948, học sinh trường Pétrus Ký mở đầu phong trào đấu tranh đòi "Dạy và Học bằng Tiếng Việt", bãi bỏ chế độ thi hà khắc, chống khủng bố kiềm kẹp học sinh. Trong ngày tựu trường 10 tháng 9 năm 1949, học sinh các trường kết hợp với trí thức và cha mẹ học sinh đưa yêu sách yêu cầu Bộ giáo dục giải quyết ngay và tiến hành bãi khóa kéo dài 1 tháng. Chính quyền thực dân Pháp đàn áp và bắt bớ. Giám đốc Nha học chính Nam phần ra lệnh đóng cửa hai trường Pétrus Ký và Gia Long, sau đó ra lệnh cho học sinh làm đơn xin đi học lại. Học sinh vẫn tiếp tục đấu tranh với 3 yêu sách:

  1. Lập tức thả ngay những học sinh bị bắt.
  2. Bảo đảm an ninh cho học sinh, không được khủng bố, bắt bớ vô cớ.
  3. Mở các trường vô điều kiện, không phải làm đơn xin học lại.

Ngày 9 tháng 1 năm 1950, hơn 2.000 học sinh trường Pétrus Ký, Áo tím Gia Long, Kỹ thuật... kéo đến trụ sở Nha học chính biểu tình, đưa yêu sách đòi thả các học sinh bị bắt. Sau đó, đoàn biểu tình kéo đến dinh Thủ hiến Nam phần. Chính quyền thực dân ra lệnh giải tán, đàn áp đoàn biểu tình dữ dội. Lúc này đoàn biểu tình đã lên đến 50.000 người đã chống trả mãnh liệt. Cảnh sát nổ súng bắn vào đoàn biểu tình. Học sinh Trần Văn Ơn, trường Petrus Ký, bị tử trận. Ban đấu tranh của học sinh tổ chức bảo vệ xác Trần Văn Ơn ở bệnh viện Chợ Rẫy và sau đó tổ chức lễ tang trọng thể tại trường.

Ngày 12 tháng 1 năm 1950, toàn thành phố đình công bãi thị, tham dự đám tang Trần Văn Ơn. Học sinh các trường trung học Mỹ Tho, Cần Thơ, Huế, Hà Nội kéo về Sài Gòn tham dự. Hầu như toàn bộ học sinh các trường đều có mặt tại trường Pétrus Ký mang theo khẩu hiệu ghi tên, trường và khẩu hiệu phản đối chính quyền. Hơn 1 triệu người xuống đường đưa đám tang. Đây là đám tang lớn nhất Sài Gòn, kể từ sau đám tang của cụ Phan Chu Trinh năm 1925.

Ngày 14 tháng 7 năm 1954, học sinh trường phát động phong trào đòi độc lập dân chủ tại trường bằng hình thức vẽ khẩu hiệu trên tường, trên bảng; công khai bày tỏ thái độ ủng hộ Hiệp định Genève.

Hoạt động thời Việt Nam Cộng hòa

Ngày 30 tháng 3 năm 1955, xung đột giữa quân chính phủ và lực lượng Bình Xuyên nổ ra. Công an xung phong của Bình Xuyên vào đóng tại trường Pétrus Ký. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1955, quân chính phủ đánh bật được quân Bình Xuyên ra khỏi trường Pétrus Ký và các điểm khác. Ngày 1 tháng 5 năm 1955, học sinh Pétrus Ký thành lập Ủy ban cứu tế nạn nhân hỏa hoạn do chiến sự gây ra. Phong trào đã tập hợp được rất nhiều tiền bạc và vật chất giúp đỡ đồng bào.

Năm 1961, trường được hợp thức hóa để trở thành trường Trung Học Đệ Nhị Cấp, chương trình trung học Việt Nam.

Năm 1970, học sinh trường tổ chức từ bãi khóa đến xuống đường tham gia biểu tình, đánh chiếm tòa đại sứ Campuchia, phản đối hành động Lon Nol tàn sát Việt Kiều ở Campuchia. Đêm 5 tháng 9 năm 1970, học sinh Petrus Ký cùng học sinh sinh viên các trường tổ chức đêm không ngủ của phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ ở miền Nam.

Năm 1972, Nguyễn Thái Bình, cựu học sinh Petrus Ký, du học ở Mỹ đã công khai công kích chính quyền Mỹ trên diễn đàn nước Mỹ. Chính phủ Mỹ đã trục xuất anh khỏi nước Mỹ, và khi về đến Việt Nam, Nguyễn Thái Bình đã bị chết một cách bí ẩn trong "vụ án không tặc Nguyễn Thái Bình".

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi Quân Giải phóng miền Nam tiến vào Sài Gòn, đã đặt Ban Quân quản Thành phố Sài Gòn tại trường, do tướng Trần Văn Trà đứng đầu, tại trường sở. Trường Trung học Pétrus Ký tạm thời đóng cửa đến tháng 7 năm 1975 thì mở cửa lại. Cuối tháng 9 năm 1975, các học sinh của trường học niên khóa 1974-1975 được dự thi bằng Trung Học Đệ nhất cấp và bằng Tú Tài.

Sau năm 1975

Trường trước khi được sơn lại.

Ngày 19 tháng 10 năm 1975 là ngày khai giảng năm học 1975-1976, năm học đầu tiên của trường dạy theo chương trình giáo dục mới. Trường cũng đổi tên thành trường Trung học cấp 2-3 Lê Hồng Phong. Từ năm học 1976-1977, trường không nhận học sinh vào lớp 6 (đệ thất cũ) và các lớp đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ cũ lần lượt chấm dứt theo cuốn chiếu đến năm 1979.

Năm học 1980-1981, trường chính thức mang tên trường Phổ thông Trung học Lê Hồng Phong, và mở lớp 10 chuyên Toán đầu tiên tại trường, thu nhận 25 học sinh có năng khiếu Toán của thành phố, mở đầu cho truyền thống hiếu học sau 1975. Đến năm 1990, trường đổi tên thành Trung học Phổ thông Chuyên Lê Hồng Phong, với mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi có năng khiếu dự thi Học sinh giỏi Quốc gia và Quốc tế.

Từ năm 1994-1995, trường được chọn làm Trung tâm Chất lượng Cao phía Nam, dành cho các học sinh trung học, và là nơi sáng lập ra kỳ thi học sinh giỏi hàng năm dành cho học sinh các tỉnh phía Nam từ Huế đến Cà Mau gọi là kỳ thi học sinh giỏi Olympic 30 tháng 4 dành cho học sinh khối 10 và 11, và tổ chức kỳ thi này trong 10/13 năm (có 2 năm tổ chức ở trường Lê Quý Đôn - Đà Nẵng. Năm 2007, tổ chức ở trường Quốc Học Huế, năm 2008 tiếp tục tổ chức tại trường Lê Hồng Phong với mục đích tạo điều kiện giao lưu giữa các học sinh giỏi và trao đổi chuyên môn giữa các thầy cô dạy lớp chuyên của các tỉnh phía Nam.

Khuôn viên trường, mặt trước.

Kiến trúc

Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong do kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết kế, mang phong cách kiến trúc Đông Dương ở Nam Bộ, với không gian rộng rãi, thoáng mát và có nhiều cây xanh.[7]

Mặt bằng chính của trường gồm ba dãy phòng học và một dãy hành lang trước mở ra sân lớn ở giữa. Các dãy phòng học có lầu, có hành lang rộng trước phòng học được trang trí theo kiểu khung vòm nguyên để tạo nhịp điệu cho toàn bộ công trình đem lại sự thông thoáng, tăng cường chiếu sáng tự nhiên, gợi lại một chút hình ảnh của Kiến trúc Romanesque cổ xưa. Thay vì sử dụng lan can con triện theo kiểu kiến trúc Phục hưng Pháp, lan can hành lang trường được đục lỗ hoặc đặt gạch vuông thông gió để tăng sự thông thoáng. Công trình sử dụng hệ tường chịu lực, mái đỡ bằng hệ vì kèo thép, vươn ra ngoài để che mưa cho tường và hành lang, có sênô thoát nước mưa. Phần mái phía trên cùng mang hình ảnh con thuyền, gợi nhớ về mái đình làng Việt Nam. Cửa lá sách tăng cường sự thông thoáng là một trong những đặc trưng của kiến trúc trường học ở vùng nhiệt đới. Cửa sổ mở ra phía hành lang bố trí cao, nhỏ để tạo sự tập trung cho học sinh; cửa sổ mở ra phía ngoài công trình có kích thước lớn, tạo tầm nhìn rộng và có tác dụng thông thoáng và lấy sáng tự nhiên cho lớp học.

Mô típ trang trí theo kiểu Á Đông kết hợp với việc sử dụng những khối kỷ hà vuông, hộp khỏe khoắn của phong cách Art Déco đã tạo nên những đường nét đơn giản, ít rườm rà và mang màu sắc của kiến trúc bản địa. Hai bên phía trước lối vào sảnh chính có hai khối lớp học, bố cục giống như hai tòa Tả vu và Hữu vu của kiến trúc cổ Việt Nam.[8]

Các đời hiệu trưởng

Năm họcHiệu trưởng
1927-1929Sainte Luce Banchelin
1929-1931Paul Valencot
1931-1933Andre Neveu
1933-1938Paul Valencot
1938-1944Le Jeannic
1944-1947Taillade
1947-1951Lê Văn Khiêm
1951-1955Phạm Văn Còn
1955-1957Nguyễn Văn Kính
1957-1958Nguyễn Văn Thơ
1958-1960Nguyễn Văn Trương
1960-1963Phạm Văn Lược
1963-1964Nguyễn Thanh Liêm
1964-1966Trần Ngọc Thái
1966-1969Trần Văn Thử
1969-1971Trần Ngọc Thái
1971-1971Trần Văn Nhơn
1971-1973Bùi Vĩnh Lập
1973-1975Nguyễn Minh Đức
1975-1977Nguyễn Văn Thiện
1977-1991La Thị Hạnh
1991-1997Nguyễn Hữu Danh
1997-2005Đặng Thanh Châu
2005-2014Võ Anh Dũng
2014-2019Nguyễn Thị Yến Trinh
2019-nayPhạm Thị Bé Hiền

Cơ cấu tổ chức

Hiệu trưởng

  • Phạm Thị Bé Hiền - Bí thư Chi bộ

Phó Hiệu trưởng

  • Trương Thị Lệ Hà - Phó Bí thư Chi bộ
  • Bùi Thị Bảo Ngọc - Chi Uỷ viên
  • Trần Bảo Ngọc - Chi Uỷ viên

Các tổ chuyên môn

  1. Tổ Toán: Thân Đức Minh
  2. Tổ Vật lí: Phạm Vì Dân
  3. Tổ Hóa học: Lê Quỳnh Liên
  4. Tổ Sinh học: Lý Thị Bích Nhung
  5. Tổ Tin học: Đỗ Phước Vận
  6. Tổ Tiếng Anh: Vũ Mỹ Lan
  7. Tổ Ngữ văn: Nguyễn Thị Ái Vân
  8. Tổ Lịch sử: Nguyễn Thị Lắm
  9. Tổ Địa lí: Đỗ Thị Hoài
  10. Tổ GD Kinh tế - Pháp luật: Nguyễn Thị Bích Huyền
  11. Tổ Pháp - Trung - Nhật: Nguyễn Quốc Cường
  12. Tổ Thể dục: Lê Quang Nghĩa

Thành tích

Từ năm 1982, trường đạt được 16 giải quốc tế của các môn học, gồm:

  1. Lê Tự Quốc Thắng, HCV Olympic Toán Quốc Tế - IMO 1982.
  2. Nguyễn Vĩnh Khanh, Hồ Trung Dũng, HCĐ Olympic Vật lý Quốc Tế - IPhO 1982.
  3. Lê Thanh Hải, HCB Olympic Toán Quốc tế - IMO 1988.
  4. Đoàn Hồng Nghĩa, HCĐ Olympic Toán Quốc tế - IMO 1989.
  5. Nguyễn Hoàng Dũng, HCĐ Olympic Tin học Quốc tế - IMO 1989.
  6. Nguyễn Thức Thành Tín, Hạng 1 Châu Á và Châu Mỹ La Tinh môn Pháp năm 1997.
  7. Quách Vũ Đạt, HCĐ Olympic Hoá Quốc tế - IChO 1997.
  8. Nguyễn Cao Nhã, HCB Olympic Hoá Quốc tế - IChO 1999.
  9. Nguyễn Thị Hạnh Thuỳ, HCĐ Olympic Hoá Quốc tế - IChO 2000.
  10. Nguyễn Thị Hạnh Thuỳ, HCB Olympic Hoá Quốc tế - IChO 2001.
  11. Trương Liêm, HCB Olympic Sinh học Quốc tế - IBO 2001.
  12. Nguyễn Phúc Diệu Hiền, HCV Olympic Tiếng Nga Quốc tế - IRLO 2004.
  13. Vũ Trần Đình Duy, HCB Olympic Vật lý Châu Á - APhO 2013.
  14. Trần Lê Quốc Khánh, HCĐ Olympic Sinh học Quốc tế - IBO 2014.
  15. Phan Huỳnh Tuấn Kiệt, HCĐ Olympic Toán Quốc tế - IMO 2021.
  16. Nguyễn Việt Phong, HCV Olympic Hoá Quốc tế - IChO 2022.

Từ năm 2013, hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh bắt đầu được triển khai tại trường và đã đạt được kết quả cao tại các hội thi trong nước. Đặc biệt, nhiều dự án của học sinh được Bộ Giáo dục chọn tham dự và đạt thành tích cao tại Hội thi Khoa học và Kỹ thuật Quốc tế dành cho học sinh trung học - Intel ISEF - được tổ chức hàng năm tại Mỹ:

  1. Trần Ngọc Châu, Trương Nhựt Cường, Nguyễn Phương Duy - Giải Tư năm 2013.
  2. Trần Thị Diệu Liên và Nguyễn Nam Du - Giải Tư năm 2014.
  3. Nguyễn Hoàng Ngân và Phạm Thanh Trúc - Giải Ba năm 2016.
  4. Phạm Thiên Tân và Chử Hoàng Minh Đức - Giải Tư năm 2017.
  5. Lê Minh Đức, Nguyễn Lê Trung Kiên, đạt giải đặc biệt do tổ chức USAID trao tặng năm 2023.
Trường Petrus Ký vào năm 1927-1929.

Cựu học sinh nổi tiếng

Trường Pétrus Ký và tiếp nối truyền thống là trường Lê Hồng Phong là nơi đã đào tạo ra nhiều thế hệ học sinh và trong số đó đã có nhiều nhân vật nổi bật trong nhiều lĩnh vực, trường còn là nơi xuất thân của rất nhiều nhân vật nổi tiếng tại Việt Nam trong thế kỷ 20.

Chú thích

Liên kết ngoài