Chiến tranh Kế vị Ba Lan

Chiến tranh Kế vị Ba Lan (tiếng Ba Lan: Wojna o sukcesję polską; tiếng Anh: War of the Polish Succession; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội chiến Ba Lan tranh giành quyền kế vị ngai vàng sau sự qua đời của Vua August II, mà các cường quốc châu Âu khác đã thúc đẩy và mở rộng cuộc xung đột để theo đuổi quyền lợi quốc gia của riêng họ. Vương quốc Pháp và Tây Ban Nha, hai cường quốc đều nằm dưới vương quyền Nhà Bourbon, đã cố gắng kiểm tra sức mạnh của Quân chủ Habsburg ở Tây Âu, Vương quốc Phổ cũng vậy, trong khi Tuyển hầu xứ SachsenĐế quốc Nga huy động để hỗ trợ người chiến thắng cuối cùng. Cuộc giao tranh ở Ba Lan dẫn đến việc Augustus III lên ngôi vua, được Nga và Sachsen ủng hộ, ngoài ra còn được Habsburg ủng hộ về mặt chính trị.

Chiến tranh Kế vị Ba Lan
Một phần của Sự cạnh tranh giữa Pháp và Habsburg

Vây hãm Danzig bởi lực lượng Nga-Sachsen năm 1734
Thời gian10 tháng 10 năm 1733 – 3 tháng 10 năm 1735
(1 năm, 11 tháng, 3 tuần và 2 ngày)
Địa điểm
Kết quả

Hiệp ước Viên

  • Augustus III lên ngôi
  • Bourbon và Habsburg giành được lãnh thổ
Thay đổi
lãnh thổ
  • Áo mất vương quyền ở Napoli và Sicilia vào tay Charles xứ Parma
  • Công quốc Lorraine thuộc về Stanisław Leszczyński (sau khi qua đời sẽ thuộc về Pháp)
  • Công quốc Parma thuộc về Áo
  • Đại công quốc Toscana thuộc về Francis Stephen
  • Ba Lan mất quyền kiểm soát trực tiếp đối với Công quốc Courland và Semigallia
  • Tham chiến
    Chỉ huy và lãnh đạo
    Jan Tarło
    Adam Tarło
    Bản mẫu:Country data Duchy of Parma Charles I
    Vương quốc Pháp Berwick 
    Vương quốc Pháp Villars
    Vương quốc Pháp Coigny
    Vương quốc Pháp Broglie
    Vương quốc Pháp Belle-Isle
    Tây Ban Nha James Fitz-James
    Tây Ban Nha Albornoz
    Công quốc Savoy Charles Emmanuel III
    Đế quốc Nga Peter Lacy
    Đế quốc Nga von Münnich
    Đế quốc Nga Thomas Gordon
    Quân chủ Habsburg Eugène xứ Savoia
    Quân chủ Habsburg von Seckendorff
    Quân chủ Habsburg von Daun
    Quân chủ Habsburg Frederick Louis 
    Quân chủ Habsburg de Mercy 
    Quân chủ Habsburg Johann Adolf II
    Tuyển hầu quốc Sachsen von Königsegg
    Vương quốc Phổ Frederick William I

    Các chiến dịch quân sự và trận đánh lớn của cuộc chiến xảy ra bên ngoài Ba Lan. Quân Bourbon, được hỗ trợ bởi Charles Emmanuel III của Sardinia, đã tiến đánh các lãnh thổ Habsburg bị cô lập. Tại Rheinland, Pháp đã chiếm thành công Công quốc Lorraine, và ở Bán đảo Ý thì Tây Ban Nha giành lại quyền kiểm soát các Vương quốc NapoliVương quốc Sicilia đã mất trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, trong khi việc giành được lãnh thổ ở miền Bắc Bán đảo Ý bị hạn chế mặc dù có chiến dịch đẫm máu. Việc Vương quốc Đại Anh không sẵn lòng hỗ trợ Quân chủ Habsburg, điều này chứng tỏ sự yếu kém của Liên minh Anh-Áo.

    Mặc dù đạt được hòa bình sơ bộ vào năm 1735, chiến tranh chính thức kết thúc với Hiệp ước Viên (1738), trong đó Augustus III được xác nhận là vua Ba Lan và đối thủ của ông là cựu vương Stanisław Leszczyński được trao Công quốc LorraineCông quốc Bar, khi đó cả hai đều là thái ấp của Đế quốc La Mã Thần thánh. Francis Stephen, Công tước xứ Lorraine, được trao Đại công quốc Toscana để đền bù cho việc từ bỏ lãnh thổ Lorraine. Công quốc Parma rơi vào tay của người Habsburg, trong khi Charles của Parma chiếm lấy vương miện của 2 vương quốc Napoli và Sicilia. Hầu hết các lãnh thổ giành được đều thuộc về người Nhà Bourbon, vì các Công quốc Lorraine và Bar từ chỗ là thái ấp của Đế chế La Mã Thần thánh trở thành thái ấp của Vương quốc Pháp, trong khi người Bourbon Tây Ban Nha giành được hai vương quốc Napoli và Sicilia ở Nam Bán đảo Ý. Về phần mình, Nhà Habsburg đã nhận lại được hai công quốc Ý, mặc dù Parma sẽ sớm quay trở lại quyền kiểm soát của Bourbon. Toscana sẽ do Habsburg nắm giữ cho đến thời Napoléon.

    Chiến tranh tỏ ra là một thảm họa đối với nền độc lập của Ba Lan, đồng thời tái khẳng định rằng các vấn đề của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, bao gồm cả việc bầu chọn Nhà vua, sẽ do các cường quốc khác của Châu Âu kiểm soát. Sau August III, sẽ chỉ còn một vị vua nữa của Ba Lan là Stanisław August Poniatowski, bản thân là bù nhìn của người Nga, và cuối cùng Ba Lan sẽ bị các nước láng giềng chia cắt và không còn tồn tại như một quốc gia có chủ quyền vào cuối thế kỷ XVIII. Ba Lan cũng từ bỏ các yêu sách đối với Livonia và từ bỏ kiểm soát trực tiếp Công quốc Courland và Semigallia, mặc dù vẫn là một thái ấp của Ba Lan nhưng không được sáp nhập vào Ba Lan và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Nga và chỉ kết thúc với sự sụp đổ của Đế quốc Nga vào năm 1917.

    Bối cảnh sửa

     
    Augustus II; cái chết của ông vào tháng 2 năm 1733 đã châm ngòi cho cuộc chiến

    Sau cái chết của Sigismund II Augustus vào năm 1572, Vua Ba Lan đã được bầu chọn bởi Szlachta, một cơ quan gồm có giới quý tộc Ba Lan, trong một cuộc bầu cử được gọi đặc biệt là Sejm. Quyền lực hoàng gia ngày càng bị hạn chế bởi Sejm, cơ quan lập pháp của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Đổi lại, Sejm thường bị tê liệt bởi Liberum Veto, quyền của bất kỳ thành viên nào trong việc ngăn chặn các quyết định của nó. Các nước láng giềng của Ba Lan thường ảnh hưởng đến Sejm và đến đầu thế kỷ XVIII, hệ thống dân chủ đã suy yêu.

    Năm 1697, Augustus II lên ngôi vua, được Áo và Nga hậu thuẫn. Bị Stanisław Leszczyński phế truất vào năm 1705, bốn năm sau ông quay trở lại và Stanisław trốn sang Pháp, nơi con gái ông là Maria Leszczyńska kết hôn với Vua Louis XV vào năm 1725. Augustus đã thất bại trong nỗ lực giành lại vương miện Ba Lan cho con trai ông là Augustus III, dẫn đến một cuộc tranh giành ngai vàng khi ông qua đời năm 1733. Trong Hiệp ước Ba đại bàng đen bí mật năm 1732, Nga, Áo và Phổ đã đồng ý phản đối cuộc bầu cử của Stanislaus hoặc Augustus III và thay vào đó ủng hộ Manuel của Bồ Đào Nha.[1]

    Tranh chấp xảy ra cùng lúc với sự tan rã của Liên minh Anh-Pháp, vốn đã thống trị châu Âu từ năm 1714. Thỏa thuận tại Utrecht nhằm đảm bảo Pháp và Tây Ban Nha vẫn tách biệt, có nghĩa là bất chấp mối quan hệ huyết thống chặt chẽ giữa Vua Louis XV của Pháp và chú Felipe V của Tây Ban Nha, hai nước là đối thủ trong Chiến của Liên minh Bộ tứ năm 1718 đến 1720. Khi Hồng y Fleury trở thành Thủ tướng Pháp vào năm 1726, ông đã tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ hơn với Tây Ban Nha, nhờ sự ra đời của Vương tử Louis, Dauphin của Pháp vào năm 1729, điều này dường như đảm bảo rằng 2 quốc gia Pháp và Tây Ban Nha vẫn sẽ vẫn tách biệt dù đều được cai trị bởi người Nhà Bourbon.[2]

    Fleury ủng hộ Stanisław, hy vọng làm suy yếu Áo và bảo vệ Công quốc Lorraine, một lãnh thổ chiến lược bị Pháp chiếm đóng trong phần lớn thế kỷ trước. Công tước hiện tại là Francis Stephen dự kiến ​​sẽ kết hôn với người thừa kế của Hoàng đế Karl VI của Thánh chế La Mã là Maria Theresia, khiến người Pháp cảm thấy nguy hiểm. Đồng thời, Felipe V của Tây Ban Nha muốn giành lại các lãnh thổ ở Bán đảo Ý đã được nhượng cho Áo vào năm 1714, dẫn đến Pacte de Famille năm 1733 giữa Pháp và Tây Ban Nha.[3]

    Cái chết của Augustus II sửa

    Stanislaus I Leszczyński, chân dung của Jean-Marc Nattier
    August III của Ba Lan, chân dung của Pietro Antonio Rotari

    Augustus II qua đời vào ngày 1 tháng 2 năm 1733. Trong suốt mùa xuân và mùa hè năm 1733, Vương quốc Pháp bắt đầu xây dựng lực lượng dọc theo biên giới phía Bắc và phía Đông của mình, trong khi Hoàng đế của Thánh chế La Mã tập trung quân đội ở biên giới Ba Lan, giảm bớt các đồn trú ở Công quốc Milan. Trong khi Thân vương Eugene xứ Savoy đã khuyến nghị với hoàng đế một kế hoạch hiếu chiến hơn nhầm chống lại các hành động tiềm tàng của Pháp ở thung lũng Rhein và miền Bắc Bán đảo Ý.

    Hầu tước de Monti, đại sứ Pháp tại Warsaw, đã thuyết phục 2 gia tộc đối địch PotockiCzartoryski đoàn kết lại đứng đằng sau để ủng hộ Stanisław. Teodor Andrzej Potocki, Giáo trưởng Ba Laninterrex sau cái chết của Augustus, đã thực hiện một cuộc triệu tập vào tháng 3 năm 1733. Các đại biểu tham dự đã thông qua một nghị quyết cấm người nước ngoài ứng cử để vào vị trí vua Ba Lan; điều này rõ ràng sẽ loại trừ cả Emmanuel của Bồ Đào Nha và con trai của Augustus II là Frederick August II, Tuyển hầu xứ Sachsen.

    Frederick August đã đàm phán các thỏa thuận với Áo và Nga vào tháng 7 năm 1733. Để đổi lấy sự hỗ trợ của Nga, ông đồng ý từ bỏ mọi yêu sách còn lại của Ba Lan đối với Livonia, và hứa với Nữ hoàng Anna của Nga về việc lựa chọn người kế vị Công quốc Courland và Semigallia, một thái ấp của Ba Lan (trong đó bà từng là nữ công tước đất này trước khi lên ngôi Nữ hoàng Nga), nếu không thì sẽ nằm dưới sự cai trị trực tiếp của Ba Lan sau cái chết của công tước hiện tại là Ferdinand Kettler, người không để lại người thừa kế. Với Hoàng đế La Mã Thần thánh, ông hứa sẽ công nhận Lệnh trừng phạt thực dụng năm 1713, một tài liệu được thiết kế để đảm bảo quyền thừa kế ngai vàng của Áo cho Maria Theresia, con cả của Karl VI.

    Vào tháng 8, giới quý tộc Ba Lan đã tập trung cho cuộc bầu cử Sejm. Vào ngày 11 tháng 8, 30.000 quân Nga dưới sự chỉ huy của Thống chế Peter Lacy đã tiến vào Ba Lan nhằm gây ảnh hưởng đến quyết định của Sejm. Vào ngày 4 tháng 9, Pháp công khai tuyên bố ủng hộ Leszczyński, người được bầu làm vua bởi một Sejm gồm 12.000 đại biểu vào ngày 12 tháng 9. Một nhóm quý tộc, dẫn đầu bởi các quý tộc người Litva trong đó có Công tước Michał Serwacy Wiśniowiecki (cựu đại tể tướng Litva được Augustus II đề cử), vượt sông Vistula dưới sự bảo vệ của quân Nga. Nhóm này, với số lượng khoảng 3.000 người, đã bầu Frederick August II làm Vua Ba Lan với vương hiệu Augustus III vào ngày 5 tháng 10. Mặc dù thực tế rằng nhóm này chỉ là thiểu số, Nga và Áo, có ý định duy trì ảnh hưởng của họ ở Ba Lan, nên đã công nhận Augustus là vua.

    Vào ngày 10 tháng 10, Pháp tuyên chiến với Áo và Sachsen. Vua Louis XV sau đó được chú của ông là Vua Felipe V của Tây Ban Nha hỗ trợ, với hy vọng đảm bảo các lãnh thổ ở Ý cho các con trai của mình với người vợ thứ hai là Elisabeth Farnese. Cụ thể, ông hy vọng có thể bảo đảm Công quốc Mantua cho con trai lớn là Vương tử Don Carlos, người đã là Công tước xứ Parma và có kỳ vọng về Đại công quốc Toscana, cũng như Vương quốc NapoliSicilia cho con trai nhỏ là Vương tử Don Felipe. Hai vị vua Bourbon cũng nhận được sự hỗ trợ quân sự từ Charles Emmanuel III của Sardinia, cũng hy vọng đảm bảo lợi ích từ các Công quốc Milan và Mantua của Áo.

    Tham khảo sửa

    1. ^ Lewinski-Corwin 1917, tr. 266-268.
    2. ^ Lodge 1931, tr. 146-147.
    3. ^ Ward & Prothero 1909, tr. 63.

    Nguồn sửa

    • Chisholm, Hugh biên tập (1911). “Polish Succession War” . Encyclopædia Britannica. 21 (ấn bản 11). Cambridge University Press. tr. 981–982.
    • Lewinski-Corwin, Edward H (1917). The Political History of Poland. Polish Book Imports.
    • Lodge, Richard (1931). “English Neutrality in the War of the Polish Succession”. Transactions of the Royal Historical Society. 14: 141–173. doi:10.2307/3678511. JSTOR 3678511. S2CID 155803033.
    • Ward, AW; Prothero, GW biên tập (1909). The Cambridge Modern History; Volume VI The 18th century. Cambridge University Press.
    • Sutton, John L (1980). The King's honor & the King's Cardinal: the war of the Polish succession. University Press of Kentucky. ISBN 978-0-8131-1417-0.
    • Wilson, Peter Hamish (1998). German armies: war and German politics, 1648–1806. Routledge. ISBN 978-1-85728-106-4.
    • Austrian-Hungarian Monarchy. Kriegsarchiv (1891). Geschichte des Kämpfe Österreichs: Feldzüge des Prinzen Eugen von Savoyen: Nach den Feldacten und anderen authentischen Quellen [History of Austrian Battles: Campaigns of Prince Eugene of Savoy: from the field records and other authentic sources] (bằng tiếng Đức). Verlag des K.K. Generalstabes, in Commission bei C. Gerold's Sohn.
    • Colletta, Pietro; Horner, Ann Susan (translator) (1858). History of the kingdom of Naples, 1734–1825, with a suppl, Parts 1825–1856.
    • Lindsay, J. O (1957). The New Cambridge Modern History. Cambridge, England: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-04545-2.
    • Pajol, Charles Pierre (1881). Les guerres sous Louis XV [The Wars of Louis XV] (bằng tiếng Pháp). Paris: Librairie de Firmin-Didot et Cie. tr. 288. Clausen Coigny.
    • Navarro i Soriano, Ferran (2019). Harca, harca, harca! Músiques per a la recreació històrica de la Guerra de Successió (1794-1715). Editorial DENES. ISBN 978-84-16473-45-8.
    • Van Alphen, Marc; Hoffenaar, Jan; Lemmers, Alan; Van der Spek, Christiaan (2019). Krijgsmacht en Handelsgeest: Om het machtsevenwicht in Europa (bằng tiếng Dutch). Boom. ISBN 978-90-244-3038-3.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
    • Israel, Jonathan (1995). The Dutch Republic: Its Rise, Greatness and Fall, 1477–1806. Oxford University Press. ISBN 0-19-873072-1.

    Liên kết ngoài sửa