Du lịch ở Cuba là một ngành công nghiệp không khói thu hút hơn 4,7 triệu lượt khách tính đến năm 2018 và là một trong những nguồn doanh thu chính của hòn đảo Cuba nhỏ bé này[1] qua đó đóng góp rất lớn vào nền kinh tế Cuba. Cuba được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu và những bãi biển đẹp, cùng với đó là di sản kiến trúc thuộc địa và lịch sử văn hóa riêng biệt nên đất nước Cuba từ lâu đã trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách. Cuba có 253 khu bảo tồn, có 257 di tích quốc gia, với 7 Di sản Thế giới được UNESCO công nhận, có 7 Khu Dự trữ Sinh quyển Tự nhiên và 13 Khu bảo tồn Động vật trong số các khu phi du lịch khác[2].

Du khách tại phố cổ La Havana

Tông quan sửa

Cuba từng là thuộc địa gần nhất của Tây Ban Nha với Hoa Kỳ cho đến năm 1898, trong nửa đầu thế kỷ 20, Cuba tiếp tục phát triển với ảnh hưởng của các khoản đầu tư lớn, tạo ra nhiều ngành công nghiệp và du lịch ngày càng tăng để cung ứng hầu hết các lợi ích và tập đoàn của Hoa Kỳ. Với khoảng cách gần (khoảng 90 dặm/140 km từ Florida Keys) và mối quan hệ gần gũi với Hoa Kỳ cũng giúp nền kinh tế thị trường của Cuba thịnh vượng khá nhanh. Khi quan hệ giữa Cuba và Hoa Kỳ xấu đi nhanh chóng sau Cách mạng Cuba năm 1959 và dẫn đến việc tịch thu và quốc hữu hóa các doanh nghiệp, hòn đảo này đã bị ngắt khỏi thị trường truyền thống của mình do các lệnh cấm vận đang diễn ra và lệnh cấm đi lại được áp dụng đối với công dân Hoa Kỳ đến thăm Cuba. Ngành du lịch giảm xuống mức thấp kỷ lục trong vòng hai năm kể từ khi Chủ tịch Castro lên nắm quyền.

Không giống như Mỹ, Canada vẫn duy trì quan hệ bình thường với Cuba và ngày càng có nhiều người Canada đến Cuba để nghỉ dưỡng. Khoảng một phần ba du khách đến Cuba năm 2014 là người Canada. Chính phủ Cuba đã điều chỉnh các chính sách sở hữu nhà nước và cho phép các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và địa phương hoạt động kể từ năm 1980. Chính phủ cũng theo đuổi các chương trình phục hồi nhằm thúc đẩy du lịch. Hoa Kỳ đã tái lập quan hệ ngoại giao với Cuba vào năm 2015, trong giai đoạn được gọi là Cuba tan băng, và ngành du lịch đã không được hưởng lợi nhiều như dự đoán từ việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ khi chính quyền Trump khôi phục một số quan hệ ngoại giao trước Cuba. Làm tan các hạn chế và áp đặt các hạn chế mới.

Cho đến năm 1997, việc tiếp xúc giữa khách du lịch và người Cuba trên thực tế đã bị chính quyền sở tại đặt ngoài vòng pháp luật[3][4]. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch Cuba đã tăng đều đặn kể từ khi thúc đẩy du lịch. Điều này đã được thực hiện nhờ những thay đổi hiến pháp đối với nền kinh tế chỉ huy xã hội chủ nghĩa của Cuba, để cho phép công nhận vốn do nước ngoài nắm giữ. Vào cuối những năm 1990, đã có 25 công ty liên doanh trong nước và nước ngoài đã hoạt động trong ngành du lịch của Cuba. Các nhà đầu tư nước ngoài và chủ khách sạn từ các nền kinh tế thị trường đã nhận thấy rằng nền kinh tế tập trung và bộ máy quan liêu của Cuba đã tạo ra các vấn đề đặc biệt về nhân sự và chi phí cao hơn bình thường. Một yếu tố bổ sung được các nhà đầu tư nước ngoài trích dẫn là mức độ tham gia của nhà nước ở cấp điều hành, cao hơn nhiều so với mức trung bình[5].

Xem thêm sửa

Chú thích sửa

 
Bảo tàng Nghệ thuật Havana
  1. ^ “One Caribbean - 2004 Cuban tourism statistics”. onecaribbean.org. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2006.
  2. ^ cubanew/ain. “Cuba as a Destination: Ready for the Tsunami? - ACN”. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2016.
  3. ^ Corbett, Ben (2004). This Is Cuba: An Outlaw Culture Survives. West-view Press. tr. 33. ISBN 978-0-8133-3826-2.
  4. ^ Rennie, David. Cuba 'apartheid' as Castro pulls in the tourists, The Daily Telegraph, 08/06/2002.
  5. ^ Hotel and the enormous tourism developments in Cuba Cornell University.

Tham khảo sửa