Khinalug, Khynalyg, hoặc Khinalyg[2][3][4] (tiếng Azerbaijan: Xınalıq; Khinalug: Kətş; cũng được dịch là Khanaluka, Khanalyk, Khinalykh, hoặc Khynalyk), là một đô thị và ngôi làng Kavkaz cổ có nguồn gốc từ thời kỳ Albania Kavkaz. Nó nằm tại vùng cao của quận Guba, phía bắc Azerbaijan. Đô thị Khinalug là một phần của Guba, bao gồm các làng Khinalug và Qalayxudat. Ngôi làng đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ tháng 9 năm 2023 với tên gọi Cảnh quan văn hoá của người Khinalig và đường gia súc “Köç Yolu” .[5]

Khinalug
—  Đô thị  —
tiếng Azerbaijan: Xınalıq
Hình nền trời của Khinalug
Khinalug trên bản đồ Azerbaijan
Khinalug
Khinalug
Quốc gia Azerbaijan
QuậnGuba
Độ cao2.180 m (7,150 ft)
Dân số [cần dẫn nguồn]
 • Tổng cộng2.075
Múi giờAZT (UTC+4)
 • Mùa hè (DST)AZT (UTC+5)
Tên chính thứcCảnh quan văn hoá của người Khinalig và đường gia súc “Köç Yolu”
LoạiVăn hoá
Tiêu chuẩniii, v
Đề cử2023 (kỳ họp 45)
Số tham khảo1696[1]

Vị trí sửa

Nó nằm tại phía tây nam của quận Guba, giữa dãy núi Đại Kavkaz, phân chia Bắc KavkazNga với Nam Kavkaz. Khinalug cũng là ngôi làng cao nhất, xa xôi và biệt lập nhất ở Azerbaijan và là một trong số những ngôi làng cao nhất ở vùng Kavkaz. Thời tiết thay đổi đáng kể giữa mùa hè và mùa đông, từ −20 °C cho tới 18 °C. Khinalug có dân số khoảng 2.000 người.[6] Họ là những người nói tiếng Khinalug, một ngôn ngữ tách biệt của Ngữ hệ Đông Bắc Kavkaz, mặc dù nhiều trong số họ cũng sử dụng tiếng Azerbaijan.[7]

Lịch sử sửa

Vào ngày 7 tháng 10 năm 2006, Tổng thống Ilham Aliyev đã công bố kế hoạch hiện đại hóa các cơ sở giáo dục, hạ tầng, tòa nhà chính phủ cùng nhiều cơ sở khác ở Khinalug.[8] Đến năm 2007, ông đã cho thành lập Khu bảo tồn lịch sử-kiến trúc và dân tộc học Nhà nước Khinalug theo sắc lệnh nhằm bảo tồn diện mạo, ngôn ngữ và phong tục độc đáo của ngôi làng.[9]

Địa điểm này được đưa vào danh sách theo dõi của Quỹ Di tích Thế giới từ năm 2008 như là một trong số 100 địa điểm có nguy cơ biến mất cao nhất, do lo ngại trước việc xây dựng con đường nối giữa Khinalug và Guba. Danh sách này không nhằm mục đích chỉ trích hoạt động thương mại và du lịch ở Khinalug, mà nó nhằm mục đích cảnh báo rằng sự phát triển không nên đánh đổi bằng giá trị lịch sử của địa điểm.

Bộ Văn hóa và Du lịch đã trùng tu phần mái của gần một trăm ngôi nhà ở Khinaluq vào năm 2011, và nhà thờ Hồi giáo từ thế kỷ 9 đã được trùng tu vào năm 2012–2014. Ngôi làng và cảnh quan tuyến đường gia súc “Köç Yolu” đã được công nhận là Di sản thế giới trong phiên họp lần thứ 45 diễn ra vào tháng 9 năm 2023.

Hình ảnh sửa

Tham khảo sửa

  1. ^ “Cảnh quan văn hoá của người Khinalig và đường gia súc "Köç Yolu". Trung tâm Di sản thế giới UNESCO. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  2. ^ Mehmandarova, Gulnara (1998). Khinalyg. Baku: Azerbaijan Encyclopaedia. ISBN 5-89600-202-5.
  3. ^ Gulnara Mehmandarova, "Khinalig: Linguists Dream, Invaders' Nightmare," Azerbaijan International, Vol. 6:2 (Summer 1998), pp. 50–51.
  4. ^ John Connor, "Hiking in the Caucasus: Sheep Dogs, Waterfalls and Blanketed Hillsides of Wildflowers," Azerbaijan International, Vol. 9:2 (Summer 2001), pp. 14–23.
  5. ^ Centre, UNESCO World Heritage. “Cultural Landscape of Khinalig People and “Köç Yolu” Transhumance Route”. UNESCO World Heritage Centre (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  6. ^ Parliamentary Assembly, Working Papers: 2007 Ordinary Session, Second Part 16-20 April 2007. Council of Europe. 28 tháng 2 năm 2008. tr. 80. ISBN 978-92-871-6254-0.
  7. ^ Wixman, Ronald (1 tháng 1 năm 1984). The Peoples of the USSR: An Ethnographic Handbook. M.E. Sharpe. tr. 104. ISBN 978-0-87332-506-6.
  8. ^ “Azerbaijani President visits Guba”. Today.az. 7 tháng 10 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2014.
  9. ^ “History of Xinaliq”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2018.

Đọc thêm sửa

  • Mammadova, Gulchohra; Alieva, Aliya; Nurmammadov, Mahammad; Hajiyeva, Sabina (9 tháng 3 năm 2023). “Một Di tích kiến trúc-lịch sử độc đáo và Làng của Khynalyg”. Trong Onyshchenko, V.; Mammadova, G.; Sivitska, S.; Gasimov, A. (biên tập). Proceedings of the 4th International Conference on Building Innovations. Springer. tr. 453–462. doi:10.1007/978-3-031-17385-1_36. ISBN 978-3-031-17384-4.

Liên kết ngoài sửa