Các dân tộc tại Việt Nam

bài viết danh sách Wikimedia

Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài", nêu trong Danh mục các dân tộc Việt Nam. Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam đưa ra trong Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ ngày 02 tháng 3 năm 1979,[1] và được Ủy ban Dân tộc và Chính phủ Việt Nam công nhận.[2][3]

Nguồn gốc

Dân số các dân tộc Việt Nam hiện nay

Theo số liệu điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tổng số dân của Việt Nam vào thời điểm 0h ngày 01/4/2019 là 96.208.984 người, trong đó dân số nam là 47.881.061 người (chiếm 49,8%) và dân số nữ là 48.327.923 người (chiếm 50,2%). Với kết quả này, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới.[4]

Phân bố dân theo Điều tra dân số 2019
Tổng sốThành thịNông thôn
ChungNamNữChungNamNữChungNamNữ
96.208.98447.881.06148.327.92333.122.54816.268.09516.854.45363.086.43631.612.96631.473.470
100%49.77%50.23%34.43%16.91%17.52%65.57%32.86%32.71 %

54 dân tộc sống trên đất Việt Nam chia theo ngôn ngữ thì có 8 nhóm [note 1]. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày, Thái (Chữ Thái Đen: ꪼꪕ), Mường, Khmer, Hoa, Nùng, H'Mông, Dao, Người Jrai (Gia Rai), Ê Đê, Ba Na, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai... Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền Trungđồng bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ ĐuRơ Măm chỉ có trên 300 người.

Danh sách chi tiết

Số liệu dân số theo Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019.[4] Số liệu 2014, 2016 để tham khảo, không có chi tiết cho các dân tộc.

Các dân tộc theo Tổng điều tra Dân số 2019[4]
NhómDân tộcDân sốTên gọi khác
Việt NamTổng 96.208.984Thống kê dân số tháng 12, 2020
1. Nhóm Việt - Mường
(ngữ hệ Nam Á)
(Vietic) [5]
Kinh82.085.826Việt
Chứt7.513Xá La Vàng, Chà Củi, Tắc Củi, Mày, Sách, Mã Liềng, Rục
Mường1.452.095Mol, Mual
Thổ91.430Kẹo, Mọn, Họ, Cuối, Đan Lai, Ly Hà, Tày Poọng
2. Nhóm Tày - Thái
(Tai–Kadai)
Bố Y3.232(Bouyei) Chủng Chá, Trung Gia, Pầu Y, Pủ Dí
Giáy67.858(Bouyei) Nhắng, Giắng, Sa Nhân, Pấu Thỉn, Chủng Chá, Pu Năm
Lào17.532Lào Bốc, Lào Nọi
Lự6.757Lừ, Duôn, Nhuồn
Nùng1.083.298
Sán Chay201.398Mán, Cao Lan - Sán Chỉ, Hờn Bạn, Hờn Chùng, Sơn Tử
Tày1.845.492Thổ
Thái1.820.950Táy, các nhóm: Thái Trắng, Thái Đen, Thái Đỏ
3. Nhóm Kadai
(Kra)
Cờ Lao4.003(Gelao)
La Chí15.126(Lachi) Thổ Đen, Cù Tê, Xá, La Ti, Mán Chí
La Ha10.157Xá Khao, Xá Cha, Xá La Nga
Pu Péo903(Qabiao, Pubiao) Ka Bẻo, Pen Ti Lô Lô, La Quả, Mán
4. Nhóm Môn – Khmer

(ngữ hệ Nam Á)
(Austroasiatic

non-Vietic)

Ba Na286.910(Bahnar) Bơ Nâm, Roh, Kon Kde, Gơlar, Kriem, Jơlơng, Rơ Ngao, Tơlô
Brâu525Brao
Bru - Vân Kiều94.598(Bru) Bru, Vân Kiều, Ma Coong, Khùa, Trì
Chơ Ro29.520Châu Ro, Dơ Ro
Co40.442(Cor) Trầu, Cùa, Col
Cơ Ho200.800(Koho)
Cơ Tu74.173(Katu) Ca Tu, Ca Tang, Cao, Hạ
Giẻ Triêng63.322Giang Rẫy, Brila, Cà Tang, Doãn
H'rê149.460(H're) Chăm Rê, Thạch Bích
Kháng16.180Xá Khao, Xá Đón, Xá Tú Lăng
Khmer1.319.652Khmer
Khơ Mú90.612(Khmu) Xá Cẩu, Pu Thênh, Tày Hạy, Việt Cang, Khá Klậu, Tênh
Mạ50.322
Mảng4.650Mảng Ư, Xá Lá Vàng, Niễng O, Xa Mãng, Xá Cang Lai
M’Nông127.334(Mnong)
Ơ Đu428Tày Hạt
Rơ Măm639
Tà Ôi52.356(Ta Oi, Tahoy) Tôi Ôi, Ta Hoi, Ta Ôih, Tà Uất, A tuất, Pa Cô
Xinh Mun29.503Puộc, Pụa, Xá.
Xơ Đăng212.277(Sedang) Kmrâng, H'Đang, Con Lan, Brila, Ca Dong, Tơ-dra
Xtiêng100.752(Stieng) Xa Điêng, Tà Mun
5. Nhóm H'Mông - Dao
(Hmong–Mien)
Dao891.151(Yao) Mán, Động, Trại, Dìu, Miến, Kiêm, Kìm Mùn
H’Mông1.393.547(Hmong) Mông, Mèo, Mẹo, Mán, Miêu Tộc
Pà Thẻn8.248Pà Hưng, Mán Pa Teng, Tống
6. Nhóm Nam Đảo
(Malayo-Polynesia)
Chăm178.948Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời, Chàm
Chu Ru23.242Chơ Ru, Kru
Ê Đê398.671(Rhade) Ra đê
Gia Rai513.930(Jarai)
Ra Glai146.613(Roglai) Ra Glay, O Rang, Glai, Rô Glai, Radlai
7. Nhóm Hán
(Sinitic)
Hoa749.466(Overseas Chinese) Tiều, Hán
Ngái1.649(Hakka Chinese) Sán Ngái
Sán Dìu183.004Trại, Trại Đát, Sán Rợ, Mán quần cộc, Mán váy xẻ
8. Nhóm Tạng-Miến
(Tibet-Burma)
Cống2.729(Phunoi)
Hà Nhì25.539(Hani) U Ní, Xá U Ní, Hà Nhì Già
La Hủ12.113(Lahu)
Lô Lô4.827(Yi) Mùn Di, Ô Man, Lu Lọc Màn, Di, Qua La, La La, Ma Di
Phù Lá12.471Phú Lá (Xá Phó)
Si La909Cú Đề Xừ[6][7]
Người nước ngoài3.553
Không xác định349

Một số dân tộc có thể có một hoặc nhiều tên gọi, trong số đó có thể trùng nhau:

  • Dân tộc Mán có thể là: Sán Chay, Dao, H’Mông, Pu Péo, Sán Dìu (Mán quần cộc, Mán váy xẻ)
  • Dân tộc Xá là tên gọi chung cho các dân tộc thiểu số tại Tây Bắc trừ người Thái và người Mường
  • Dân tộc Brila có thể là: Giẻ Triêng, Xơ Đăng.
  • Dân tộc Thổ có thể chỉ dân tộc Tày.

Các dân tộc chưa được xác định rõ

Đây là những dân tộc được nhắc đến trong hoạt động xã hội, tuy nhiên lại không được nêu trong danh sách 54 dân tộc tại Việt Nam.

Các dân tộc Tây Nguyên

Người Xơ Đăng gồm nhiều nhóm có ngôn ngữ khác nhau như Hà Lăng, Mơ Nơm, Tơ Đ'rá, Xơ Đăng, Ca Dong... hiện gộp chung với tên gọi Xơ Đăng. Người Rơ Ngao hiện gộp chung với dân tộc Bahnar. Tương tự, các nhóm như Giẻ, Triêng, Lave, Bh'noong (chiếm đa số), hiện gộp chung với tên gọi Giẻ-Triêng. Người Cơ Ho gồm nhiều nhóm khác nhau như Srê, Chil, Lạt, Nộp, Dòn...

Người Pa Kô

Người Pa Kô là tên một cộng đồng thiểu số có vùng cư trú truyền thống là Trung Việt Nam và Nam Lào. Theo nghĩa trong tiếng Tà Ôi thì "Pa" là phía, "Kô" là núi, tức là người bên núi [8]. Tại Việt Nam người Pa Kô chủ yếu sống ở các huyện Hướng Hóa, Đakrông tỉnh Quảng Trị, và A Lưới tỉnh Thừa Thiên Huế [9]. Theo Ethnologue[10] tiếng Pa Kô là một ngôn ngữ riêng biệt tuy cũng có quan hệ gần với người Tà Ôi, và tại Lào thì người Pa KôTà Ôi là hai dân tộc riêng biệt [11].

Tuy nhiên cộng đồng Pa Kô chưa được coi là một dân tộc riêng mà đang được xếp vào dân tộc Tà Ôi trong Danh mục các dân tộc Việt Nam.

Người Nguồn

Người Nguồn là tên gọi cộng đồng người gồm 35.000 nhân khẩu, sống ở huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Hiện vẫn còn chưa có sự thống nhất về việc người Nguồn có phải là một sắc tộc riêng hay không. Tại Hội thảo khoa học xác định dân tộc Nguồn tổ chức ngày 19 tháng 10 năm 2004 tại Đồng Hới, Quảng Bình, có ý kiến đề nghị xếp người Nguồn vào dân tộc Mường, Thổ hoặc Chứt, và cũng có ý kiến tách người Nguồn thành một dân tộc thiểu số riêng.[12]. Tiếng Nguồn hiện được Glottolog xếp là một ngôn ngữ riêng [13].

Người Arem

Người Arem là tộc người hiện có 42 hộ với 183 người, sống ở vùng vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, hiện được xếp là người Chứt. Năm 1992 họ được bộ đội biên phòng phát hiện trong các hang đá và đưa về sống với cộng đồng, hiện ở xã Tân Trạch, Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình [14]. Họ nói tiếng Arem nhưng cũng nói được tiếng của những tộc láng giềng: gặp người Khùa họ nói tiếng Khùa, gặp người Ma Coong họ dùng tiếng Ma Coong để giao tiếp [15].

Người Đan Lai

Người Đan Lai có dân số khoảng hơn 3.000 người, sống chủ yếu ở vùng núi tại các bản Co Phạt, Khe Khặng, xã Môn Sơn huyện Con Cuông tỉnh Nghệ An.

Người Đan Lai được coi là có nguồn gốc từ người Kinh, trước đây ở làng Đan Nhiệm bỏ lên núi sống do các xung đột trong xã hội. Hiện tại họ được xếp vào dân tộc Thổ.

Người Tà Mun

Người Tà Mun là cộng đồng cỡ 3.000 người, với gần 2.000 người sống ở Tây Ninh và trên 1.000 người ở Bình Phước. Sở VHTTDL Tây Ninh đã chủ trì một đề tài khoa học là "Nghiên cứu, xác định thành phần dân tộc của người Tà Mun tại Tây Ninh", trong đó đã xác định là khoảng những năm 1945 - 1954 nhóm người Tà Mun trú ngụ ở sóc 5, xã Tân Hiệp, huyện Bình Long (nay là huyện Hớn Quản, Bình Phước) đã di cư đến Tây Ninh. Người Tà Mun theo chế độ mẫu hệ. Theo người già thuật lại thì giấy chứng nhận sắc tộc trước kia hiện còn giữ lại, đã công nhận "sắc dân Tà Mun" là "đồng bào Thượng miền Nam". Sau năm 1975, trong CMND của người Tà Mun vẫn được ghi là dân tộc Tà Mun. Đến khi lập danh mục thành phần dân tộc Việt Nam thì người Tà Mun không còn vị thế riêng mà xếp vào nhóm dân tộc "được coi là có quan hệ gần gũi về văn hóa, ngôn ngữ trên địa bàn là người XtiêngKhmer". Tuy nhiên bà con người Tà Mun luôn khẳng định mình là người Tà Mun và không liên quan gì tới người Xtiêng, Khmer, hay Chơ Ro [16][17][18].

Người Thủy

Người Thủy là dân tộc sinh sống chủ yếu tại Tỉnh Quý Châu, Trung Quốc, và được công nhận là một trong 56 dân tộc tại CHND Trung Hoa. Người Thủy nói tiếng Thủy, là một ngôn ngữ thuộc Ngữ hệ Tai-Kadai. Tại Việt Nam có 26 hộ với 104 khẩu người Thủy sống tại xã Hồng Quang, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang, tuy nhiên họ không được công nhận chính thức là một dân tộc thiểu số.[19]

Những năm trước đây các giấy tờ cá nhân như Chứng minh nhân dân đã ghi mục "Dân tộc" là "Thủy" (bản CMND năm 2006). Tuy nhiên "bắt đầu từ năm 2016 công an tỉnh Tuyên Quang dừng cấp chứng minh nhân dân cho tộc người Thủy" và việc này gây rắc rối cho hoạt động của họ.[20]

Người Xạ Phang

Người Xạ Phang hay Hạ Phương là một cộng đồng dân tộc có dân số hơn 2.000 người, di trú từ Trung Quốc vào đầu thập niên 60 thế kỷ 20. Họ có cùng nguồn gốc với dân tộc Hoa và sử dụng tiếng Hoa là ngôn ngữ chính, tuy nhiên trang phục, tập tục có nét giống với người H'Môngngười Lô Lô. Họ sinh sống rải rác ở các xã, huyện biên giới Nậm Pồ, Mường Chà, Mường Nhé, Tủa Chùa của tỉnh Điện Biên.[21][22]

Người Pú Nả

Người Pú Nả còn có tên gọi khác như Củi Chu, Pố Y, Sa Quý Châu... sinh sống ở xã San Thàng, thị xã Lai Châu.

Người Pú Nả hiện được xếp vào dân tộc Giáy, và có văn hóa giống người Giáy ở Lào Cai nhưng nói tiếng Pú Nả mà người Giáy không nghe được. Họ có nguồn gốc từ tỉnh Quý Châu (Trung Quốc) di cư về Việt Nam cách đây từ 150 - 200 năm.[23]

Người Ngái, Đản, Hoa Nùng

Người Ngái hiện được xếp là một dân tộc sinh sống tại Việt Nam, tuy nhiên các dân tộc được xếp vào người Ngái tồn tại rất nhiều khác biệt về nguồn gốc, ngôn ngữ.

Tiếng nói của người Ngái là tiếng Ngái, một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ H'Mông-Miền. Tuy nhiên, nhiều cộng đồng có nguồn gốc từ người Khách Gia, người Nùng, người Hoa (như người Hoa Nùng tại Đồng Nai) cũng được xếp vào nhóm dân tộc Ngái.

Ngoài ra còn có thiểu số người Đản Gia là một dân tộc sống trên sông nước tại miền Nam Trung Quốc, tại Việt Nam họ cũng được xếp vào dân tộc Ngái. [1]

Người En

Người En nói tiếng Nùng Vẻn hay còn gọi là tiếng En gồm 200 người sinh sống tại xóm Cả Tiểng, xã Nội Thôn, huyện Hà Quảng, Cao Bằng. Năm 1998, tiếng Nùng Vẻn được các nhà nghiên cứu đã xác định tiếng En là một ngôn ngữ thuộc nhóm Bố Ương, không phải nhóm Tày-Nùng.

Người Mơ Piu

Tiếng Mơ Piu là một ngôn ngữ H'mông chưa được phân loại được nói ở làng Nậm Tu Thượng, xã Nậm Xé, mạn tây huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Nó được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 2009 bởi một nhóm các nhà ngôn ngữ học Pháp, tiếng Mơ Piu rất khác biệt so với các ngôn ngữ H'Mông lân cận ở Việt Nam.

Người Thu Lao

Người Thu Lao sinh sống ở huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, hiện được xếp vào dân tộc Tày. Người Thu Lao nói tiếng Thu Lao thuộc ngữ chi Tráng Đại và có bản sắc văn hóa riêng. Cư dân Thu lao đặt chân đến mảnh đất Lào Cai từ thế kỷ 17 – 18. Nơi đầu tiên họ cư trú là xã Tả Gia Khâu, huyện Mường Khương. Sau đó, do thiếu nguồn nước và đất canh tác, họ chuyển dần sang địa phận xã Thảo Chư Phìn và Bản Mộ huyện Si Ma Cai và xã Mường Khương, xã Thanh Bình của huyện Mường Khương và định cư cho đến ngày nay.

Người Pa Dí

Người Pa Dí sinh sống chủ yếu ở Mường Khương tỉnh Lào Cai với dân số khoảng 2.000 người. Hiện được coi là dân tộc Bố Y.

Phân bố lãnh thổ

Người Việt/Kinh là dân tộc đa số, sinh sống trên khắp các vùng lãnh thổ nhưng chủ yếu ở vùng đồng bằng, các hải đảo và tại các khu đô thị.

Hầu hết các nhóm dân tộc thiểu số (trừ người Hoa, người Khmer, người Chăm) sinh sống tại các vùng trung du và miền núi. Trong đó các dân tộc thuộc nhóm Hán-Tạng (trừ người Hoa), Tai-KadaiHmong-Dao phân bố chủ yếu ở Miền Bắc. Nhóm Nam Đảo chỉ sinh sống ở Nam Trung Bộ, Tây NguyênNam Bộ. Riêng nhóm Nam Á phân bố trải dài trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

Các nhóm dân tộc thiểu số khác không có các lãnh thổ riêng biệt; nhiều nhóm sống hòa trộn với nhau. Một số nhóm dân tộc này đã di cư tới miền Bắc và Bắc Trung bộ Việt Nam trong các thời gian khác nhau: người Thái đến Việt Nam trong khoảng từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII; người Hà Nhì, Lô Lô đến vào thế kỷ X; người Dao vào thế kỷ XI; các dân tộc H'Mông, Cao Lan, Sán Chỉ, và Giáy di cư đến Việt Nam từ khoảng 300 năm trước.

Hiện nay do hệ quả của các làn sóng di cư mới, nhiều người Kinh đã lên sinh sống tại các tỉnh miền núi, trong đó các tỉnh Tây Nguyên đã có đa số dân cư là người Kinh. Nhiều dân tộc thiểu số sinh sống tại các tỉnh phía Bắc như Tày, Nùng, Mường, Hmông... cũng di cư với số lượng lớn vào các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam BộNam Trung Bộ.

Chế độ gia đình

Ngoài ngôn ngữ và văn hóa, các dân tộc ở Việt Nam còn được phân loại dựa trên mô hình gia đình. Có 3 nhóm chế độ gia đình chính ở Việt Nam là :

  • Phụ hệ: Con lấy theo họ bố và được xem là thuộc về gia đình bên phía bố. Vợ chồng sau khi cưới thì về sống bên nhà chồng và người vợ trở thành 1 thành viên của gia đình chồng. Người đàn ông là chủ của gia đình và có toàn quyền quyết định trong các vấn đề quan trọng. Tài sản thừa kế được để lại cho các con trai và con trai trưởng được ưu tiên.
  • Mẫu hệ: Con lấy theo họ mẹ và được xem là thuộc về gia đình bên phía mẹ. Vợ chồng sau khi cưới thì về sống bên nhà vợ và người chồng trở thành 1 thành viên của gia đình vợ. Người phụ nữ là chủ của gia đình, nhưng quyền quyết định các vấn đề quan trọng có thể vẫn phụ thuộc vào người chồng hoặc các họ hàng nam giới bên dòng họ mẹ. Tài sản thừa kế được để lại cho các con gái.
  • Không phân biệt tử hệ (đôi khi được hiểu là Song hệ nhưng quy định về các thuật ngữ trên trong tiếng Việt vẫn chưa được thống nhất): Không có họ hoặc có cách tính họ khác với 2 cách trên, con cái được xem là thuộc về cả dòng bên mẹ lẫn bên bố. Vợ chồng tự quyết định sống bên phía vợ hoặc phía chồng hoặc sống riêng tùy theo tính thuận tiện và điều kiện kinh tế. Quyền quyết định các vấn đề của gia đình phụ thuộc vào cả vợ lẫn chồng. Tài sản thừa kế được dành cho cả con trai lẫn con gái hoặc có các quy tắc thừa kế riêng.[25]

Trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam:[26]

Hiện nay nhiều nét của chế độ Không phân biệt tử hệ cũng dần phổ biến ở người Kinh và một số dân tộc thiểu số khác do hệ quả của các phong trào tuyên truyền và vận động đòi quyền Bình đẳng giới. Các quy định của pháp luật về thừa kế cũng được biên soạn trên cơ sở không phân biệt giới tính giữa các con.

Biến động

Do quá trình di cư và đồng hóa diễn ra liên tục trong lịch sử, hầu hết các dân tộc Việt Nam đều không thuần chủng. Trong một công trình nghiên cứu kết quả phân tích DNA trên nhiễm sắc thể Y của nam giới thuộc 2 nhóm dân tộc Kinh Việt Nam và Chăm cho thấy :[27]

  • Khoảng 40% nam giới Kinh và Chăm thuộc về nhóm O2a-M95, là nhóm Haplogroup đặc trưng cho ngữ hệ Nam Á, trong đó dòng con O2a1-OM88 chiếm tỷ lệ cao (30%) ở người Kinh nhưng chỉ chiếm 8.5% ở nhóm Chăm.
  • 6.58% nam giới Kinh và 5.08% nam giới Chăm thuộc về nhóm haplogroup O1a-M119, là nhóm đặc trưng của ngữ hệ Nam ĐảoTai-Kradai, tuy rằng tiếng Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Điều này chỉ ra rằng ban đầu đa số tổ tiên người Chăm sử dụng các ngôn ngữ Nam Á sau đó mới chuyển dần sang sử dụng tiếng Chăm Nam Đảo do quá trình đồng hóa ngôn ngữ.
  • Happlogroup O3-M134 của ngữ hệ Hán-Tạng chiếm 9.2% nam giới Kinh nhưng chỉ chiếm 1.7% nam giới Chăm.
  • Do mối quan hệ thương mại lâu đời giữa Ấn Độ và Chămpa và hệ quả của thời Pháp thuộc, 13.6% nam giới Chăm và 1% nam giới Kinh mang haplogroup R-M17 của ngữ hệ Ấn-Âu.
  • Các haplogroup thuộc các nhóm bên ngoài Nam Á, Hán-Tạng, Nam Đảo, Tai-Kadai như :
    • O3-M17 - đặc trưng cho ngữ hệ Hmong-Mien nhưng cũng có tỉ lệ cao trong nhánh Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á.
    • O3-M200* - vốn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm thổ dân Negrito ở Phillipines.
    • C-M126 - được tìm thấy với tỷ lệ cao ở người Mông Cổ, thổ dân châu Mỹchâu Úc nhưng cũng được tìm thấy với tỉ lệ đáng kể ở khu vực Đông Nam Á.
    • K-P131* - tìm thấy với tỷ lệ lớn với mức đa dạng cao ở thổ dân Úc.
    • N-231 - chiếm tỷ lệ cao ở nhóm ngôn ngữ Ural cũng được tìm thấy với tỷ lệ đáng kể trong các mẫu nhiễm sắc thể Y của nam giới Kinh và Chăm cho thấy bức tranh di truyền vô đa dạng của lịch sử di cư và hình thành các dân tộc tại Việt Nam.

Xem thêm

Chỉ dẫn

Tham khảo

Liên kết ngoài