Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil

Đội tuyển bóng đá nam đại diện cho Brazil trên đấu trường quốc tế

Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Seleção Brasileira de Futebol, SBF) là đội tuyển bóng đá quốc gia do Liên đoàn bóng đá Brasil quản lý và đại diện Brasil tham dự đấu trường quốc tế. Brasil là thành viên của FIFA từ năm 1923 và là thành viên của CONMEBOL từ năm 1916.[7]

Brasil
Huy hiệu áo/huy hiệu Hiệp hội
Biệt danhSeleção
Hiệp hộiLiên đoàn bóng đá Brasil
(Confederação Brasileira de Futebol)
Huấn luyện viên trưởngFernando Diniz (tạm quyền)
Đội trưởngCasemiro
Thi đấu nhiều nhấtCafu (142)
Ghi bàn nhiều nhấtNeymar (79)
Mã FIFABRA
Áo màu chính
Áo màu phụ
Hạng FIFA
Hiện tại 5 Giữ nguyên (21 tháng 12 năm 2023)[1]
Cao nhất1 (9.1993 31.3.2022-5.4.2023[2])
Thấp nhất22 (6.2013)
Hạng Elo
Hiện tại 1 Giữ nguyên (30 tháng 11 năm 2022)[3]
Cao nhất1 (15.6.1958)
Thấp nhất18 (11.2001)
Trận quốc tế đầu tiên
 Argentina 3–0 Brasil 
(Buenos Aires, Argentina; 20 tháng 9 năm 1914)[4]
Trận thắng đậm nhất
 Brasil 14–0 Nicaragua 
(México; 17 tháng 10 năm 1975)[5]
 Brasil 10–1 Bolivia 
(São Paulo, Brazil; 10 tháng 4 năm 1949)[6]
 Brasil 9–0 Colombia 
(Lima, Peru; 24 tháng 3 năm 1957)
Trận thua đậm nhất
 Uruguay 6–0 Brasil 
(Viña del Mar, Chile; 18 tháng 9 năm 1920)
 Brasil 1–7 Đức 
(Belo Horizonte, Brasil; 8 tháng 7 năm 2014)
Giải thế giới
Sồ lần tham dự22 (Lần đầu vào năm 1930)
Kết quả tốt nhấtVô địch: 1958, 1962, 1970,
1994, 2002
Copa América
Sồ lần tham dự36 (Lần đầu vào năm 1916)
Kết quả tốt nhấtVô địch: 1919, 1922, 1949,
1989, 1997, 1999, 2004, 2007, 2019
Cúp Liên đoàn các châu lục
Sồ lần tham dự7 (Lần đầu vào năm 1997)
Kết quả tốt nhấtVô địch: 1997, 2005, 2009, 2013
Thành tích huy chương Thế vận hội
Bóng đá nam
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Los Angeles 1984 Đồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Seoul 1988 Đồng đội
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Atlanta 1996 Đồng đội
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Bắc Kinh 2008 Đồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Luân Đôn 2012 Đồng đội
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất Brasil 2016 Đồng đội

Brazil là đội tuyển quốc gia thành công nhất tại FIFA World Cup, với 5 lần vô địch ở các năm 1958, 1962, 1970, 19942002. Seleção cũng có thành tích tổng thể tốt nhất tại giải đấu World Cup, cả về tỷ lệ và tuyệt đối, với 76 trận thắng sau 114 trận đã đấu, hiệu số bàn thắng bại 129, 247 điểm và 19 trận thua.[8][9] Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil là đội tuyển duy nhất đã tham dự tất cả các kỳ World Cup, kể cả các kỳ bị gián đoạn do chiến tranh. Đây cũng là đội tuyển duy nhất đã vô địch World Cup ở bốn châu lục khác nhau, bao gồm châu Âu (1958), Nam Mỹ (1962), Bắc Mỹ (19701994), và châu Á (2002). Brazil là đội duy nhất vô địch Cúp Liên đoàn các châu lục 4 lần. Họ cũng đã giành huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 2016,[10] qua đó trở thành một trong hai quốc gia duy nhất, cùng với Pháp, vô địch tất cả các cuộc thi dành cho cầu thủ FIFA 11 nam ở mọi lứa tuổi.[10][11][12][13][14]

Trên bảng xếp hạng, đội tuyển Brazil có hệ số Elo trung bình cao nhất trong lịch sử bóng đá, và hệ số Elo cao nhất mọi thời đại đạt được vào năm 1962.[15] Trên bảng xếp hạng Đội tuyển hay nhất của năm do FIFA tổ chức, Brazil nắm giữ kỷ lục với 13 lần đứng đầu bảng.[16] Rất nhiều nhà bình luận, chuyên gia và cựu cầu thủ đánh giá đội tuyển Brazil năm 1970 là đội bóng hay nhất mọi thời đại.[17][18][19][20][21] Các đội Brazil khác cũng được đánh giá cao và thường xuyên được nhắc đến trong danh sách những đội bóng hay nhất mọi thời đại. Điển hình như đội Brazil giai đoạn 1958-1962 và đội Brazil giai đoạn 1994-2002. Ngoài ra, đội Brazil năm 1982 cũng được nhắc đến với lối chơi đẹp mắt và đầy mê hoặc.[22][23][24][25] Năm 1996, đội tuyển quốc gia Brazil đã tạo ra một kỳ tích đáng kinh ngạc khi trải qua 35 trận liên tiếp bất bại. Thành tích này đã giúp họ trở thành đội tuyển quốc gia có chuỗi trận bất bại dài nhất thế giới trong 25 năm.[26][27][28]

Biệt danh

Do tầm ảnh hưởng cao của mình, đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil được biết đến với rất nhiều biệt danh. Một vài trong số đó là:

Tiếng Bồ Đào NhaTiếng Việt
SeleçãoĐội tuyển
Seleção BrasileiraĐội tuyển Brasil
CanarinhoTiểu kim tước
Verde-AmarelaVàng - Xanh
Esquadrão de OuroPhi đội Vàng
PentacampeõesNhà vô địch năm kỳ

Lịch sử

Brasil là quốc gia duy nhất đã tham dự tất cả các kì World Cup và là quốc gia đầu tiên vô địch 5 lần (1958, 1962, 1970, 1994 và 2002). Với kết quả đó, người Brasil thường gọi đội tuyển quốc gia của họ là "Pentacampeão", có nghĩa là "5 lần vô địch" trong tiếng Bồ Đào Nha. Khi tính thêm 2 lần hạng nhì (1950 và 1998) và 2 lần hạng ba (1938 và 1978) tại World Cup, cũng như nhiều thành công khác, Brasil được xem là đội tuyển thành công nhất thế giới bóng đá.

Những năm đầu

Đội tuyển quốc gia của Brasil được thành lập vào năm 1914 và đã đấu trận đầu tiên là trận giao hữu với Exeter City F.C. ngay trong năm đó, thắng 2–0. Không như những chiến thắng trong tương lai, các lần thi đấu ban đầu của đội tuyển không có gì ngoạn mục, một phần vì các hiềm khích bên trong về vấn đề dùng các cầu thủ nhà nghề làm cho Liên đoàn bóng đá Brasil không thể có một đội tuyển hoàn hảo.

Đặc biệt nhất là sự bất đồng ý kiến giữa hai hiệp hội bóng đá của bang São Paulobang Rio de Janeiro và hậu quả là đội tuyển bao gồm các cầu thủ của 2 hiệp hội cãi cọ đó. Tại cả hai World Cup 1930World Cup 1934, Brasil bị loại ngay tại Vòng 1. Nhưng tại World Cup 1938 thì đã có hiện tượng mới cho tương lai, Brasil đã chiếm hạng ba thế giới với Leônidas da Silva trở thành cầu thủ đầu tiên ghi 4 bàn thắng trong một trận của giải.

Brasil đăng cai World Cup 1950, lần giải đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Giải này đặc biệt vì không có trận chung kết, thay vào đó là 4 đội đứng đầu vòng bảng vào Vòng chung kết và thi đấu vòng tròn một lượt. Tuy nhiên trận giữa Brasil và Uruguay đã được xem như "trận chung kết" của giải. Brasil trước đó đã thể hiện phong độ hủy diệt, đè bẹp Thụy Điển 7-1 và Tây Ban Nha 6-1 và được nhiều người đánh giá là đã cầm chắc chức vô địch trong tay. Trận đấu giữa Brasil và Uruguay ra tại sân vận động Maracanã tại Rio de Janeiro trước 199.854 khán giả và Brasil chỉ cần hoà Uruguay để đoạt chức vô địch. Tuy vậy Brasil đã để thua 1-2 mặc dù đang hòa 1-1. Kết quả này được coi là một trong những bất ngờ lớn nhất trong lịch sử bóng đá. Trận này được dân Nam Mỹ đặt tên là trận "Maracanazo (Maracanãzo) (Thảm họa Maracanã)". Sau khi trận đấu kết thúc, một bầu không khí im lặng và đau buồn bao trùm lấy sân Maracanã [29][30]. Màu áo, quần và tất trắng nguyên vẹn từ đầu đến chân mà đội tuyển Brasil đã mặc trong ngày hôm đó đã bị bỏ vĩnh viễn và thay bằng trang phục thi đấu áo vàng quần xanh dương (thỉnh thoảng là quần trắng) và tất trắng như ngày nay.

Chuẩn bị cho World Cup 1954 tại Thụy Sĩ, đội tuyển của Brasil được "thay máu" hoàn toàn, để xóa nhòa trận thua nhục nhã "Maracanã" 4 năm về trước, nhưng vẫn còn các cầu thủ tốt như Nilton Santos, Djalma SantosDidi. Tại trận tứ kết, Brasil đã bị thua Hungary 2-4. Trận đấu đã bị chỉ trích là một trong những trận "bẩn thỉu" nhất trong lịch sử bóng đá và đã được đặt tên là "Chiến trận Berne" (theo như một số CĐV Brasil).

Kỉ nguyên Vàng với huyền thoại Pelé (1958–70)

Đội tuyển Brasil tại World Cup 1970 được nhiều người đánh giá là đội bóng mạnh nhất mọi thời đại

Đến với World Cup 1958, Brasil đã nằm chung bảng với Anh, Liên XôÁo. Họ đã đánh bại Áo 3–0 trong trận đầu tiên, sau đó hòa 0-0 với đội tuyển Anh. Trước trận đấu với Liên Xô, HLV Vicente Feola đã thực hiện ba sự thay đổi rất quan trọng để Brasil đánh bại Liên Xô: Zito, GarrinchaPelé. Họ thắng trận 2–0. Pelé đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận tứ kết gặp xứ Wales, và họ đánh bại Pháp 5-2 trong trận bán kết với cú hat-trick của thiên tài 17 tuổi Pelé. Brasil sau đó đánh bại chủ nhà Thụy Điển 5–2 trong trận chung kết để giành chức vô địch World Cup đầu tiên của họ và trở thành quốc gia đầu tiên vô địch World Cup bên ngoài lục địa của mình.

Tại World Cup 1962, Brasil đã giành được chức vô địch World Cup lần thứ hai với Garrincha là cầu thủ ngôi sao, trong khi Pelé, bị chấn thương trong trận đấu thứ hai tại vòng bảng với Tiệp Khắc và không thể chơi phần còn lại của giải đấu.

Tại World Cup 1966, Brasil đã có màn trình diễn siêu tệ nhất của họ tại một kỳ World Cup, giải đấu năm 1966 được ghi nhớ vì lối chơi vô cùng bạo lực như kéo áo, đẩy người, xoạc sau, đánh cùi chỏ, dùng tay để chơi bóng, v..v., và Pelé là một trong những cầu thủ bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi ông bị chấn thương trong trận đấu với Bồ Đào Nha. Brasil bị loại ngay từ vòng bảng, trở thành nhà đương kim vô địch World Cup thứ hai bị loại khỏi vòng bảng World Cup. Sau khi giải đấu kết thúc, Pelé tuyên bố rằng ông không muốn thi đấu tại World Cup thêm một lần nữa, tuy nhiên, ông đã lại trở lại vào năm 1970.

Brasil đã giành cúp thế giới lần thứ ba tại World Cup 1970 tại Mexico. Đội tuyển Brasil năm đó được đánh giá là đội bóng xuất sắc nhất trong lịch sử với một dàn sao gồm Pelé, đội trưởng Carlos Alberto Torres, Jairzinho, Tostão, GérsonRivelino, mặc dù Garrincha đã giải nghệ trước đó, nhưng đội hình này vẫn được xem là mạnh nhất thế giới khi đó. Họ đã thắng cả sáu trận của họ tại giải đấu này: 4-1 trước Tiệp Khắc, 1-0 trước Anh và 3-2 trước Rumani ở vòng bảng. Họ sau đó hạ Peru 4-2 ở tứ kết, 3-1 trước Uruguay ở bán kết và hủy diệt Italia 4-1 ở trận chung kết. Pelé kết thúc giải đấu với 4 bàn. Brasil giành chiếc cúp Jules Rimet lần thứ ba (quốc gia đầu tiên làm được như vậy). Điều này có nghĩa là họ đã được phép giữ chiếc cúp Jules Rimet vĩnh viễn.

Suy yếu (1974-90)

Với việc Pelé giải nghệ, Brasil đã không thể vượt qua Hà Lan tại World Cup 1974Tây Đức, và sau khi thua Ba Lan 1-0 ở trận tranh giải ba, họ kết thúc giải ở vị trí thứ tư. Brasil sau đó cũng bị loại tại vòng bảng thứ hai của World Cup 1978 dù không để thua trận đấu nào do thua kém Argentina về hiệu số bàn thắng bại.

Tại World Cup 1982 tổ chức ở Tây Ban Nha, Brasil là được xem là ứng cử viên số 1 cho ngôi vô địch, và trên thực tế họ đã dễ dàng vượt qua vòng bảng, nhưng họ đã bị loại sau thất bại 2-3 ở sân Camp Nou (hay còn gọi là Nou Camp) trước Ý, trong một trận đấu được coi là kinh điển của lịch sử World Cup. Đội tuyển Brasil năm 1982, với những hảo thủ như Sócrates, Zico, Falcão và Éder, được xem là đội bóng vĩ đại nhất không bao giờ giành được một chức vô địch World Cup.

Tại World Cup 1986 ở Mexico, Brasil vẫn là một đội bóng rất mạnh và kỷ luật hơn nhiều so với bốn năm trước đó, tuy vậy họ đã bị đội tuyển Pháp của Michel Platini loại ở tứ kết.

Năm 1989, Brasil giành danh hiệu Copa America đầu tiên kể từ năm 1949.

Tại World Cup 1990 ở Ý, Brasil đã được huấn luyện bởi Sebastião Lazaroni, đã từng là huấn luyện viên tại Copa América 1989. Với một chiến thuật nghiêng về phòng thủ, với nòng cốt là tiền vệ Dunga, đội bóng thiếu sáng tạo Brasil đã bị loại bởi Argentina của Diego Maradona ngay tại vòng 16 đội ở Turin với tỉ số 1-0.

Trở lại với đỉnh cao (1994-2002)

Brasil đã trải qua 24 năm mà không giành chiến thắng một kỳ World Cup nào. Họ cuối cùng cũng trở lại với đỉnh cao tại giải đấu năm 1994Hoa Kỳ, nơi một đội tuyển Brasil đầy thực dụng của những Romario, Bebeto, Dunga, Cláudio Taffarel và Jorginho đã lập kỉ lục trở thành đội đầu tiên bốn lần vô địch thế giới. Họ đánh bại chủ nhà Hoa Kỳ 1-0 tại vòng 16 ở San Francisco, một chiến thắng 3-2 trước Hà Lan ở vòng tứ kết tại Dallas, và chiến thắng 1-0 trước Thụy Điển ở vòng bán kết tại Los Angeles. Họ vượt qua Italia của Roberto Baggio trên chấm phạt đền trong trận chung kết để lên ngôi vô địch.

Tại World Cup 1998, đội tuyển Brasil chấp nhận ngôi á quân sau khi để thua 0-3 trước chủ nhà Pháp trong trận đấu cuối cùng. Ngôi sao lớn nhất của họ trong giải đấu năm đó, Ronaldo bất ngờ lên cơn động kinh bí ẩn ngay trước khi trận đấu chung kết diễn ra [31].

4 năm sau, "Bộ Ba R" (Ronaldo, RivaldoRonaldinho) đã đưa đội tuyển Brasil giành chức vô địch thế giới thứ năm tại World Cup 2002, giải đấu được tổ chức ở 2 quốc gia Hàn Quốc và Nhật Bản. Brasil giành vé vào vòng 16 với vị trí đầu bảng sau khi đánh bại cả ba đối thủ là Thổ Nhĩ Kỳ, Costa RicaTrung Quốc. Sau đó Brasil đã đánh bại Bỉ 2–0 tại Kobe ở vòng 16 với hai bàn thắng của Rivaldo và Ronaldo. Đối đầu với đội tuyển Anh trong trận tứ kết ở Shizuoka, họ thắng 2–1, với bàn thắng ấn định tỉ số tới từ một cú đá phạt tuyệt đẹp của Ronaldinho. Trận bán kết tái đấu Thổ Nhĩ Kỳ ở Saitama; Brasil thắng 1–0 với Ronaldo là người ghi bàn duy nhất. Trong trận chung kết giữa Đức và Brasil ở Yokohama, Ronaldo đã ghi cả hai bàn thắng trong chiến thắng 2–0 của Brasil. Ronaldo cũng đã giành được danh hiệu Chiếc giày vàng khi là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu năm đó với 8 bàn thắng.

Brasil đã giành được chức vô địch Copa América năm 2004, chức vô địch lần thứ ba của họ trong bốn lần tham dự kể kể từ năm 1997[32]. Brasil cũng đã giành được danh hiệu FIFA Confederations Cup lần thứ hai vào năm 2005[33]. Huấn luyện viên Carlos Alberto Parreira đã xây dựng đội hình của Brasil với sơ đồ 4-2-2-2. Với biệt danh là "Bộ tứ ma thuật", hàng tấn công của Brasil giai đoạn này được xây dựng xung quanh bốn ngôi sao: Ronaldo, Adriano, KakáRonaldinho.

Hạn hán World Cup (2006-nay)

Brazil và Nhật Bản bước vào sân tại World Cup 2006

Tại World Cup 2006, Brazil khởi đầu mạnh mẽ với hai chiến thắng trước Croatia (1-0) và Australia (2-0). Trong trận đấu cuối cùng của vòng bảng gặp Nhật Bản, Brazil tiếp tục giành chiến thắng với tỷ số 4-1. Ronaldo ghi hai bàn, qua đó cân bằng kỷ lục về số bàn thắng nhiều nhất ở World Cup. Ở vòng 16 đội, Brazil dễ dàng đánh bại Ghana với tỷ số 3-0. Bàn thắng của Ronaldo trong trận đấu này giúp anh trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong lịch sử World Cup. Tuy nhiên, Brazil đã bị loại ở tứ kết trước Pháp, thua 1-0 bởi bàn thắng của Thierry Henry.[34]

Sau khi được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng đội tuyển Brazil vào năm 2006.[35] Dưới sự dẫn dắt của ông, Brazil giành chức vô địch Cúp bóng đá Nam Mỹ 2007.[36] Hai năm sau khi giành chức vô địch Copa América 2007, Brazil tiếp tục khẳng định vị thế của mình là một trong những đội bóng mạnh nhất thế giới bằng cách giành chức vô địch Cúp Liên đoàn các châu lục 2009.[37][38]

Tại World Cup 2010 diễn ra ở Nam Phi, Brazil khởi đầu đầy hứng khởi với hai chiến thắng liên tiếp trước Triều Tiên (2-1) và Bờ Biển Ngà (3-1). Trận đấu cuối cùng của vòng bảng gặp Bồ Đào Nha khép lại với tỷ số hòa 0-0. Ở vòng 16 đội, Brazil dễ dàng vượt qua Chile với tỷ số 3-0. Tuy nhiên, giấc mơ vàng của họ tan vỡ ở tứ kết khi để thua Hà Lan 2-1.[39]

Vào tháng 7 năm 2010, Mano Menezes được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng mới của Brazil.[40] Tuy nhiên, ngay tại Cúp bóng đá Nam Mỹ 2011, Brazil đã phải nhận thất bại cay đắng trước Paraguay ở tứ kết[41] Vào ngày 4 tháng 7 năm 2012, Brazil đã tụt xuống vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng FIFA vì chỉ thi đấu các trận giao hữu, không có trận đấu chính thức nào kể từ khi giành quyền tham dự World Cup 2014 với tư cách là chủ nhà.

Sự trở lại của Luiz Felipe Scolari (2013-2014)

Tháng 11 năm 2012, HLV Mano Menezes bị sa thải và Luiz Felipe Scolari được bổ nhiệm thay thế.[42][43]

Cầu thủ Brazil ăn mừng chiến thắng sau khi lên ngôi vô địch Cúp Liên đoàn các châu lục FIFA 2013

Brazil bước vào Confederations Cup 2013 với tư cách là đương kim vô địch, nhưng họ đang đứng thứ 22 trên bảng xếp hạng FIFA, thứ hạng thấp nhất từ trước đến nay.[44] Tuy nhiên, đội bóng này đã nhanh chóng lấy lại phong độ và giành chức vô địch Confederations Cup 2013, đánh bại Tây Ban Nha 3-0 trong trận chung kết[45][46][47] Neymar được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu và nhận được Giải Quả bóng vàng và Giày đồng Adidas, còn Júlio César đã giành được Giải Găng tay vàng cho thủ môn xuất sắc nhất giải đấu.[48]

World Cup 2014

Tại trận khai mạc World Cup 2014, đội chủ nhà Brazil đã giành chiến thắng 3-1 trước Croatia, với cú đúp của Neymar và bàn thắng của Oscar. Đây là chiến thắng đầu tiên của Brazil trên sân nhà tại World Cup sau 64 năm.[49] Tiếp theo, Brazil hòa Mexico 0-0 trước khi giành vé vào vòng loại trực tiếp bằng chiến thắng 4-1 trước Cameroon. Neymar tiếp tục tỏa sáng với hai bàn thắng, còn Fred và Fernandinho ghi bàn còn lại.[50][51] Ở vòng 16, Brazil đối đầu với Chile. David Luiz mở tỉ số cho Brazil ở phút 18, nhưng Chile gỡ hòa ở phút 89. Trên chấm phạt đền, Neymar, David Luiz và Marcelo thành công, còn thủ môn Júlio César cản phá thành công 3 cú sút của Chile giúp Brazil giành chiến thắng 3-2.[52]

Tại World Cup 2014, Brazil đối đầu với Colombia. Neymar (hàng trước, thứ hai từ bên phải) đã phải rời sân trên cáng vì bị gãy xương đốt sống, đó cũng là trận đấu cuối cùng của anh tại giải đấu.

Brazil tiếp tục gặp khó khăn ở vòng tứ kết khi phải đối đầu với Colombia, một đối thủ cũng đến từ Nam Mỹ. Brazil đã giành chiến thắng 2-1 với những bàn thắng của David LuizThiago Silva. Tuy nhiên, Neymar đã phải rời sân trong hiệp hai sau khi bị Juan Camilo Zúñiga va chạm với lưng. Neymar được đưa đến bệnh viện và được chẩn đoán bị gãy xương đốt sống, khiến anh không thể tham dự phần còn lại của giải đấu.[53] Trước đó, Neymar đã là nhân tố quan trọng giúp Brazil thi đấu thành công. Anh đã ghi 4 bàn thắng, có 1 kiến tạo và được bầu là cầu thủ hay nhất trận 2 lần. Brazil gặp thêm những rắc rối trước trận bán kết với Đức khi Thiago Silva bị treo giò một trận do nhận thẻ vàng thứ hai của giải đấu ở tứ kết.[54]

Ở trận bán kết World Cup 2014, Brazil đã phải hứng chịu thất bại nặng nề 1-7 trước Đức. Đây là trận thua tệ hại nhất của Brazil tại World Cup và là lần đầu tiên họ thua trên sân nhà trong một trận đấu chính thức kể từ năm 1975.[55][56][57] Sau thất bại này, Brazil tiếp tục thua 0-3 trước Hà Lan trong trận tranh hạng ba.[58][59] Đội bóng Nam Mỹ kết thúc giải đấu với thành tích phòng ngự tệ nhất trong số 32 quốc gia tham dự, để thủng lưới 14 bàn.[60][61][62]

Sự trở Lại Của Dunga (2014–2016)

Dunga, cựu đội trưởng Brazil vô địch World Cup 1994, từng đảm nhiệm vai trò huấn luyện viên của đội tuyển giai đoạn 2006-2010 và 2014-2016.

Ngày 22 tháng 7 năm 2014, Dunga được bổ nhiệm trở lại làm huấn luyện viên trưởng Brazil[63][64][65], đánh dấu lần thứ hai ông nắm giữ vị trí này kể từ sau khi đội tuyển bị loại khỏi World Cup 2010.[66][67][68]

Copa América 2015

Brazil khởi đầu giải đấu với một màn lội ngược dòng ngoạn mục trước Peru, với bàn thắng phút chót của Douglas Costa.[69] Tuy nhiên, niềm vui của họ đã nhanh chóng bị dập tắt khi thất bại 1-0 trước Colombia ở trận tiếp theo.[70] Brazil kết thúc vòng bảng với chiến thắng 2-1 trước Venezuela, qua đó giành quyền vào vòng loại trực tiếp.[71] Ở vòng tứ kết, Brazil đối đầu với Paraguay. Trận đấu diễn ra rất kịch tính và hai đội hòa nhau 1-1 sau 90 phút thi đấu chính thức. Brazil đã có cơ hội giành chiến thắng trong loạt sút luân lưu, nhưng họ đã thất bại với tỷ số 4-3.[72] Thất bại này là một cú sốc lớn đối với Brazil. Đây là lần đầu tiên trong gần 20 năm, đội bóng Nam Mỹ không thể tham dự Cúp Liên đoàn các châu lục.[73]

Cúp bóng đá Nam Mỹ

Brazil khởi đầu Copa América Centenario 2016 với một trận hòa không bàn thắng trước Ecuador. Tuy nhiên, đội bóng Ecuador đã có cơ hội giành chiến thắng khi được hưởng một quả phạt đền ở hiệp hai, nhưng họ đã bỏ lỡ cơ hội này. Ở trận đấu tiếp theo, Brazil đã giành chiến thắng hủy diệt 7-1 trước Haiti. Philippe Coutinho đã ghi hat-trick, còn những bàn thắng còn lại được ghi bởi Gabriel Jesus, Renato Augusto, Marcelo và Neymar.[74] Chỉ cần một trận hòa để vào vòng loại trực tiếp, nhưng Brazil đã bất ngờ để thua trước Peru với tỷ số 1-0. Bàn thắng duy nhất của trận đấu được ghi bởi Raul Ruidiaz ở phút 75, nhưng bàn thắng này đã gây ra nhiều tranh cãi. Nhiều người cho rằng Ruidiaz đã dùng tay để đưa bóng vào lưới.[75] Đây là lần đầu tiên họ thua trước Peru kể từ năm 1985[76] và cũng là lần đầu tiên họ bị loại từ vòng bảng Copa América kể từ năm 1987.[77][78][79][80]

Kỷ Nguyên Tite (2016–2022)

Đội tuyển Brazil trước trận đấu vòng bảng với Costa Rica tại FIFA World Cup 2018Nga
Cổ động viên Brazil tại World Cup 2018

Ngày 14 tháng 6 năm 2016, Tite được Liên đoàn bóng đá Brazil (CBF) bổ nhiệm làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia, thay thế Carlos Dunga.[81] Sáu ngày sau đó, Tite chính thức bắt đầu công việc mới của mình.[82] Trận đấu đầu tiên của ông là chiến thắng 3-0 trước Ecuador trên sân khách vào ngày 2 tháng 9.[83] Tite tiếp tục dẫn dắt Brazil giành chiến thắng 2-1 trước Colombia, 5-0 trước Bolivia và 0-2 trước Venezuela, qua đó giúp đội bóng lên đầu bảng xếp hạng vòng loại World Cup 2018. Brazil sau đó đánh bại Paraguay 3-0 để trở thành đội đầu tiên, ngoài chủ nhà Nga, giành quyền tham dự giải đấu này.[84][85]

Brazil bắt đầu chiến dịch World Cup 2018 với một trận hòa đáng tiếc trước Thụy Sĩ, qua đó đánh dấu trận mở màn không thắng đầu tiên của họ kể từ năm 1978.[86] Tuy nhiên, họ đã nhanh chóng lấy lại phong độ và giành chiến thắng 2-0 trước Costa Rica ở trận đấu sau đó, với các bàn thắng của Coutinho và Neymar trong thời gian bù giờ. Chiến thắng này giúp Brazil giành quyền vào vòng 16 đội với tư cách là đội nhất bảng.[87][88] Ở vòng 16, Brazil tiếp tục đánh bại Mexico với tỷ số 2-0, nhờ các bàn thắng của Neymar và Firmino.[89] Tuy nhiên, hành trình của họ tại World Cup 2018 đã kết thúc đáng tiếc ở tứ kết, khi họ để thua Bỉ với tỷ số 2-1. Bàn thắng phản lưới nhà của Fernandinho.[90][91][92]

Vào ngày 8 tháng 6 năm 2021, đội tuyển Brazil đánh bại Paraguay 2-0 ở vòng loại World Cup, qua đó giành chức vô địch quốc gia này lần đầu tiên kể từ năm 1985.[93] Tại World Cup 2022, Brazil đứng đầu bảng sau khi đánh bại Serbia 2-0, Thụy Sĩ 1-0 và thua Cameroon 1-0.[94] Sau đó, đội tiếp tục giành chiến thắng với cách biệt 3 bàn trước Hàn Quốc ở vòng 16.[95] Tuy nhiên, họ đã để thua Croatia 4-2 trên chấm phạt đền ở tứ kết.[96] Sau thất bại này, huấn luyện viên trưởng Tite tuyên bố từ chức.[97]

Danh hiệu

Vô địch: 1958; 1962; 1970; 1994; 2002
Á quân: 1950; 1998
Hạng ba: 1938; 1978
Vô địch: 1997; 2005; 2009; 2013
Á quân: 1999
Vô địch (9): 1919; 1922; 1949; 1989; 1997; 1999; 2004; 2007; 2019
Á quân (12): 1921; 1925; 1937; 1945; 1946; 1953; 1957; 1959; 1983; 1991; 1995; 2021
Hạng ba (7): 1916; 1917; 1920; 1942; 1959; 1975; 1979
Á quân: 1996; 2003
Hạng ba: 1998
2016; 2020
1984; 1988
  • Bóng đá nam tại Pan Americas Games:
1963; 1975; 1979; 1987
1959
1983

Thành tích

Giải vô địch bóng đá thế giới

NămKết quả St T H [98] B Bt Bb
1930Vòng 1210152
1934100113
1938Hạng ba53111411
1950Á quân6411226
1954Tứ kết311185
1958Vô địch6510164
1962Vô địch6510145
1966Vòng 1310246
1970Vô địch6600197
1974Hạng tư732264
1978Hạng ba7430103
1982Vòng 25401156
1986Tứ kết5410101
1990Vòng 2430142
1994Vô địch7520113
1998Á quân74121410
2002Vô địch7700184
2006Tứ kết5401102
2010531194
2014Hạng tư73221114
2018Tứ kết531183
2022531183
2026Chưa xác định
2030
2034
Tổng cộng22/22
5 lần: Vô địch
114761919237108

Cúp Liên đoàn các châu lục

NămKết quả St T H [98] B Bt Bb
1992Không giành quyền tham dự
1995
1997Vô địch5410142
1999Á quân5401166
2001Hạng tư512233
2003Vòng 1311133
2005Vô địch5311126
20095500145
20135500143
2017Không giành quyền tham dự
Tổng cộng7/10
4 lần: Vô địch
3323557827

Cúp bóng đá Nam Mỹ

Copa América
NămThành
tích
Thứ
hạng
Số
trận
ThắngHòaThuaBàn
thắng
Bàn
thua
1916Hạng ba3rd302134
19173rd310278
1919Vô địch1st4310123
1920Hạng ba3rd310218
1921Á quân2nd310243
1922Vô địch1st523072
1923Hạng tư4th300325
1924Bỏ cuộc
1925Á quân2nd4'211119
1926Bỏ cuộc
1927
1929
1935
1937Á quân2nd64021711
1939Bỏ cuộc
1941
1942Hạng ba3rd6312157
1945Á quân2nd6501195
19462nd5311137
1947Bỏ cuộc
1949Vô địch1st8701467
1953Á quân2nd7403179
1955Bỏ cuộc
1956Hạng tư4th522145
1957Á quân2nd6402239
19592nd6420177
1959Hạng ba3rd4202710
1963Hạng tư4th62131213
1967Bỏ cuộc
1975Hạng ba3rd6501164
19793rd62 2210 9
1983Á quân2nd 8 2 4 2 85
1987Vòng bảng5th210154
1989Vô địch1st7520111
1991Á quân 2nd 7 4 12 12 8
1993Tứ kết5th412164
1995Á quân2nd6 4 2010 3
1997Vô địch1st6600223
19991st6600172
2001Tứ kết6th420254
2004Vô địch1st6321136
20071st6411155
2011Tứ kết8th413064
20155th421154
2016Vòng bảng9th311172
2019Vô địch1st6420131
2020Á quân 2nd 7 5 11 12 3
2024Chưa xác định
Tổng cộng8 lần
vô địch
37/471911103845430204

Thế vận hội Mùa hè

  • (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Thế vận hội Mùa hè
NămThành
tích
Thứ
hạng
Số
trận
ThắngHòaThuaBàn
thắng
Bàn
thua
1900Không tham dự
1904
1908
1912
1920
1924
1928
1936
1948
1952Tứ kết6th320196
1956Không tham dự
1960Vòng bảng6th3201106
19649th311152
196811th302145
197212th301246
1976Hạng tư4th521266
1980Không vượt qua vòng loại
1984Huy chương bạc2nd641195
19882nd6411124
Tổng cộng2 lần huy
chương bạc
8/1932157105940

Đại hội Thể thao liên Mỹ

  • (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1995)
Đại hội Thể thao liên Mỹ
NămThành
tích
Thứ
hạng
Số
trận
ThắngHòaThuaBàn
thắng
Bàn
thua
1951Không tham dự
1955
1959Huy chương bạc2nd64112711
1963Huy chương vàng1st4310183
1967Không tham dự
1971
1975Huy chương vàng1st6510332
19791st5500141
1983Huy chương bạc2nd320131
1987Huy chương vàng1st5410102
1991Không tham dự
1995Tứ kết5th422052
Tổng cộng4 lần huy
chương vàng
7/1233256211022

Lịch thi đấu

2024

v  Brasil
v  Brasil
v  Costa Rica
v  Brasil
v  Colombia
v  Brasil

Cầu thủ

Đội hình hiện tại

Đây là đội hình tham dự 2 trận giao hữu gặp AnhTây Ban Nha vào tháng 3 năm 2024.
Số liệu thống kê tính đến ngày 26 tháng 3 năm 2024 sau trận gặp Tây Ban Nha.

SốVTCầu thủNgày sinh (tuổi)TrậnBànCâu lạc bộ
11TMBento10 tháng 6, 1999 (24 tuổi)20 Athletico Paranaense
121TMRafael23 tháng 6, 1989 (34 tuổi)00 São Paulo
231TMLéo Jardim20 tháng 3, 1995 (29 tuổi)00 Vasco da Gama

22HVDanilo15 tháng 7, 1991 (32 tuổi)561 Juventus
32HVMurilo27 tháng 3, 1997 (27 tuổi)00 Palmeiras
42HVBremer18 tháng 3, 1997 (27 tuổi)40 Juventus
62HVWendell20 tháng 7, 1993 (30 tuổi)20 Porto
132HVYan Couto3 tháng 6, 2002 (21 tuổi)30 Girona
142HVFabrício Bruno12 tháng 2, 1996 (28 tuổi)20 Flamengo
242HVAyrton Lucas19 tháng 6, 1997 (26 tuổi)20 Flamengo
252HVLucas Beraldo24 tháng 11, 2003 (20 tuổi)20 Paris Saint-Germain

53TVBruno Guimarães16 tháng 11, 1997 (26 tuổi)201 Newcastle United
83TVLucas Paquetá27 tháng 8, 1997 (26 tuổi)4410 West Ham United
153TVJoão Gomes12 tháng 2, 2001 (23 tuổi)20 Wolverhampton Wanderers
173TVAndré16 tháng 7, 2001 (22 tuổi)50 Fluminense
183TVDouglas Luiz9 tháng 5, 1998 (25 tuổi)130 Aston Villa
193TVAndreas Pereira1 tháng 1, 1996 (28 tuổi)30 Fulham
263TVPablo Maia10 tháng 1, 2002 (22 tuổi)10 São Paulo

74Vinícius Júnior12 tháng 7, 2000 (23 tuổi)283 Real Madrid
94Richarlison10 tháng 5, 1997 (26 tuổi)4820 Tottenham Hotspur
104Rodrygo9 tháng 1, 2001 (23 tuổi)225 Real Madrid
114Raphinha14 tháng 12, 1996 (27 tuổi)226 Barcelona
164Pepê24 tháng 2, 1997 (27 tuổi)10 Porto
204Sávio10 tháng 4, 2004 (19 tuổi)10 Girona
214Endrick21 tháng 7, 2006 (17 tuổi)42 Palmeiras
224Galeno21 tháng 10, 1997 (26 tuổi)10 Porto

Triệu tập gần đây

VtCầu thủNgày sinh (tuổi)Số trậnBtCâu lạc bộLần cuối triệu tập
TMEderson17 tháng 8, 1993 (30 tuổi)250 Manchester Cityv.  Anh, 23 March 2024 INJ
TMAlisson2 tháng 10, 1992 (31 tuổi)630 Liverpoolv.  Argentina, 21 November 2023
TMLucas Perri10 tháng 12, 1997 (26 tuổi)00 Lyonv.  Argentina, 21 November 2023
TMWeverton13 tháng 12, 1987 (36 tuổi)100 Palmeirasv.  Sénégal, 20 June 2023

HVMarquinhos (đội phó)14 tháng 5, 1994 (29 tuổi)847 Paris Saint-Germainv.  Anh, 23 March 2024 INJ
HVGabriel Magalhães19 tháng 12, 1997 (26 tuổi)61 Arsenalv.  Anh, 23 March 2024 INJ
HVRenan Lodi8 tháng 4, 1998 (25 tuổi)190 Al-Hilalv.  Argentina, 21 November 2023
HVEmerson Royal14 tháng 1, 1999 (25 tuổi)100 Tottenham Hotspurv.  Argentina, 21 November 2023
HVCarlos Augusto7 tháng 1, 1999 (25 tuổi)20 Inter Milanv.  Argentina, 21 November 2023
HVNino10 tháng 4, 1997 (26 tuổi)10 Zenit Saint Petersburgv.  Argentina, 21 November 2023
HVGuilherme Arana14 tháng 4, 1997 (26 tuổi)60 Atlético Mineirov.  Uruguay, 17 October 2023
HVAdryelson23 tháng 3, 1998 (26 tuổi)00 Lyonv.  Uruguay, 17 October 2023
HVVanderson21 tháng 6, 2001 (22 tuổi)20 Monacov.  Venezuela, 12 October 2023 INJ
HVCaio Henrique31 tháng 7, 1997 (26 tuổi)10 Monacov.  Venezuela, 12 October 2023 INJ
HVRoger Ibañez23 tháng 11, 1998 (25 tuổi)30 Al-Ahliv.  Peru, 12 September 2023
HVÉder Militão18 tháng 1, 1998 (26 tuổi)302 Real Madridv.  Sénégal, 20 June 2023
HVAlex Telles15 tháng 12, 1992 (31 tuổi)120 Al-Nassrv.  Sénégal, 20 June 2023
HVRobert Renan11 tháng 10, 2003 (20 tuổi)00 Internacionalv.  Sénégal, 20 June 2023

TVCasemiro (đội trưởng)23 tháng 2, 1992 (32 tuổi)757 Manchester Unitedv.  Anh, 23 March 2024 INJ
TVRaphael Veiga19 tháng 6, 1995 (28 tuổi)60 Palmeirasv.  Argentina, 21 November 2023
TVJoelinton14 tháng 8, 1996 (27 tuổi)51 Newcastle Unitedv.  Argentina, 21 November 2023
TVGerson20 tháng 5, 1997 (26 tuổi)50 Flamengov.  Uruguay, 17 October 2023

Gabriel Martinelli18 tháng 6, 2001 (22 tuổi)91 Arsenalv.  Anh, 23 March 2024 INJ
Gabriel Jesus3 tháng 4, 1997 (26 tuổi)6419 Arsenalv.  Argentina, 21 November 2023
João Pedro26 tháng 9, 2001 (22 tuổi)10 Brighton & Hove Albionv.  Argentina, 21 November 2023
Paulinho15 tháng 7, 2000 (23 tuổi)10 Atlético Mineirov.  Argentina, 21 November 2023
Neymar5 tháng 2, 1992 (32 tuổi)12879 Al-Hilalv.  Uruguay, 17 October 2023
Matheus Cunha27 tháng 5, 1999 (24 tuổi)110 Wolverhampton Wanderersv.  Uruguay, 17 October 2023
David Neres3 tháng 3, 1997 (27 tuổi)81 Benficav.  Uruguay, 17 October 2023
Antony24 tháng 2, 2000 (24 tuổi)162 Manchester Unitedv.  Bolivia, 8 September 2023
Pedro20 tháng 6, 1997 (26 tuổi)61 Flamengov.  Sénégal, 20 June 2023
Malcom26 tháng 2, 1997 (27 tuổi)20 Al-Hilalv.  Sénégal, 20 June 2023
Rony11 tháng 5, 1995 (28 tuổi)30 Palmeirasv.  Sénégal, 20 June 2023

  • INJ Cầu thủ rút lui vì chấn thương
  • PRE Đội hình sơ bộ
  • SUS Bị cấm thi đấu
  • WD Cầu thủ rút lui do chấn thương không rõ ràng

Cầu thủ xuất sắc

Dưới đây là danh sách các cầu thủ xuất sắc từng khoác áo đội tuyển Brasil.

Huấn luyện viên

Một số huấn luyện viên trong lịch sử.

Kỷ lục

Số lần khoác áo đội tuyển quốc gia

Cafu là cầu thủ khoác áo đội tuyển Brasil nhiều nhất với 142 trận
Tính đến ngày 21 tháng 11 năm 2023
Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
#Cầu thủSố trậnBàn thắngThời gian thi đấu
1Cafu14251990–2006
2Neymar128792010–
3Dani Alves12682006–2022
3Roberto Carlos125111992–2006
4Thiago Silva11372008–
6Lúcio10542000–2011
7Cláudio Taffarel10101988–1998
8Robinho100282003–2015
9Djalma Santos9831952–1968
Ronaldo98621994–2011

Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất

Neymar là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển quốc gia với 79 bàn thắng
Tính đến ngày 21 tháng 11 năm 2023[99]
Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
#Cầu thủBàn thắngSố trậnHiệu suấtThời gian thi đấu
1Neymar791280.622010–
2Pelé77910.851957–1971
3Ronaldo62980.631994–2011
4Romário55700.791987–2005
5Zico48710.671976–1986
6Bebeto39750.521985–1998
7Rivaldo35740.461993–2003
8Jairzinho33810.401964–1982
Ronaldinho33970.341999–2013
10Ademir32390.821945–1953
Tostão32540.591966–1972

Tham khảo

  • Ruy Castro, Andrew Downie (translator) (2005). Garrincha - The triumph and tragedy of Brazil's forgotten footballing hero. Yellow Jersey Press, London. ISBN 0-224-06433-9.

Chú thích

Liên kết ngoài

Danh hiệu
Tiền nhiệm:
 Tây Đức
Vô địch thế giới
1958, 1962
Kế nhiệm:
 Anh
Tiền nhiệm:
 Anh
Vô địch thế giới
1970
Kế nhiệm:
 Tây Đức
Tiền nhiệm:
 Tây Đức
Vô địch thế giới
1994
Kế nhiệm:
 Pháp
Tiền nhiệm:
 Pháp
Vô địch thế giới
2002
Kế nhiệm:
 Ý
Tiền nhiệm:
 Đan Mạch
Vô địch Cúp Confederations
1997
Kế nhiệm:
 México
Tiền nhiệm:
 Pháp
Vô địch Cúp Confederations
2005, 2009,2013
Kế nhiệm:
đương kim vô địch
Tiền nhiệm:
 Uruguay
Vô địch Nam Mỹ
1919
Kế nhiệm:
 Uruguay
Tiền nhiệm:
 Argentina
Vô địch Nam Mỹ
1922
Kế nhiệm:
 Uruguay
Tiền nhiệm:
 Argentina
Vô địch Nam Mỹ
1949
Kế nhiệm:
 Paraguay
Tiền nhiệm:
 Uruguay
Vô địch Nam Mỹ
1989
Kế nhiệm:
 Argentina
Tiền nhiệm:
 Uruguay
Vô địch Nam Mỹ
1997; 1999
Kế nhiệm:
 Colombia
Tiền nhiệm:
 Colombia
Vô địch Nam Mỹ
2004; 2007
Kế nhiệm:
 Uruguay
Tiền nhiệm:
 Chile
Vô địch Nam Mỹ
2019
Kế nhiệm:
CXĐ