Bà Rịa (tỉnh)

Bà Rịatỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ Việt Nam, nay là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bản đồ hạt Bà Rịa năm 1881
Bản đồ tỉnh Bà Rịa năm 1890

Lịch sử

Vùng đất Bà Rịa xưa

Vùng đất Bà Rịa đ­ược ngư­ời Việt Nam khai phá từ thế kỷ 17, lúc đầu Bà Rịa thuộc dinh Trấn Biên, tỉnh Gia Định. Năm 1808, vua Gia Long đổi Trấn Biên thành Biên Hoà. Tên Bà Rịa có hai cách giải thích: theo các cuốn Gia Định thành thống chí'", Đại Nam nhất thống chí và một số bộ sử khác thì Bà Rịa vốn là đất của tiểu vư­ơng Bà Rịa (bị Chân Lạp thôn tính).

Năm­ 1622, theo thoả ư­ớc của chúa Nguyễn Phúc Nguyên với vua Chân Lạp Chey Chetta II, những nhóm c­ư dân Việt đầu tiên được phép khai phá xứ Mô Xoài. Tên Bà Lỵ là cách ng­ười Việt viết âm tiếng Hán của Bà Rịa. Một cách giải thích khác: vào khoảng năm 1789 có một ngư­ời đàn bà tục gọi là Bà Rịa ngư­ời Bình Định đưa dân nghèo vào khai hoang ở Tam Phước (tên gọi ngày nay). Nhờ uy tín và tài năng tổ chức, bà động viên đ­ược mọi ngư­ời ra sức khẩn hoang, xây dựng cuộc sống trên vùng đất mới. Về già, bà Rịa đem hết tài sản của mình làm việc công ích, lập quỹ cứu tế để trợ giúp ng­ời nghèo, rước thầy về dạy học cho trẻ,... Bà qua đời năm 1803, đư­ợc dân lập dền thờ như­ một vị phúc thần. Tên của bà đã trở thành tên của vùng đất này.

Tuy nhiên, cách xác định, được biết đến và tin cậy rộng rãi nhất về vùng đất này đó là bà Nguyễn Thị Rịa (1665 – 1759) đã dẫn dắt người dân khai khẩn vùng Đàng Trong, ảnh hưởng tới tên gọi của Bà Rịa dưới quy chế, xác nhận của người Pháp thời Pháp thuộc cho đến ngày nay.[1]

Thay đổi hành chính

Tỉnh Bà Rịa được thành lập từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 cùng với 19 tỉnh khác ở Nam Kỳ theo nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương do việc đổi các hạt tham biện thành tỉnh.

Trước đó vào năm 1876, hạt tham biện, còn gọi là tiểu khu hành chính, (arrondissement) Bà Rịa được thành lập trên địa bàn phủ Phước Tuy của tỉnh Biên Hòa cũ.

Khi mới thành lập, tỉnh Bà Rịa có 8 tổng, 64 làng, sau tăng lên thành 10 tổng.

Ngày 27 tháng 6 năm 1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ (thuộc chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) nhập 2 tỉnh Bà Rịa và Chợ Lớn thành tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn, có khi gọi tắt là tỉnh Bà Chợ. Tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn thuộc Phân liên khu Miền Đông, Liên khu Nam Bộ.

Tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lập tỉnh Phước Tuy gồm địa bàn tỉnh Bà Rịa và quần đảo Trường Sa.

Từ tháng 3 năm 1963 đến tháng 12 năm 1963 và từ tháng 11 năm 1966 đến tháng 10 năm 1967, chính quyền Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam sáp nhập tỉnh Bà Rịa với tỉnh Biên Hòa thành tỉnh Bà Biên.

Trong quá trình tồn tại của tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu đã nhiều được tách ra rồi lại nhập vào.

Tiền nhiệm:
Hạt Tham Biện Bà Rịa- Liên Bang Đông Dương
Tỉnh Bà Rịa - Liên Bang Đông Dương
1900-1956
Kế nhiệm:
tỉnh Phước Tuy- Việt Nam Cộng Hoà

Hiện nay, địa danh Bà Rịa chỉ còn được dùng để chỉ thành phố Bà Rịa, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và là tỉnh lỵ của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Phân chia hành chính

Năm 1897

Toàn tỉnh Bà Rịa được chia thành 7 tổng:

  1. Tổng An Phú Hạ có 13 làng: Long Hiệp, Long Hương, Long Kiên, Long Lập, Long Nhung, Long Xuyên, Mỹ Xuân, Núi Nứa, Phước Hòa, Phước Hữu, Phước Lễ, Phú Thạnh, Thạnh An
  2. Tổng An Phú Thượng có 7 làng: An Ngãi, An Nhứt, Hắc Lăng, Long Điền, Long Thạnh, Long Hải, Phước Tỉnh
  3. Tổng Phước Hưng Hạ có 12 làng: Gia Thạnh, Hiệp Hòa, Hưng Hòa, Long Hưng, Long Thới, Phước Hữu, Phước Hạp, Phước Lợi, Phước Thọ, Phước Tuy, Thạnh Mỹ, Xuyên Mộc
  4. Tổng Phước Hưng Thượng có 8 làng: An Thới, Hội Mỹ, Lộc An, Long Mỹ, Phước Hải, Phước Liễu, Phước Trinh, Phước Hưng
  5. Tổng An Trạch có 7 làng: Bằng La, Cù Bị, Cụ Khánh, Hắc Dịch, La Vân, Phước Chí, La Sơn
  6. Tổng Long Cơ có 6 làng: Bình Ba, Bình Giã, Điền Giả, Ngãi Giao, Quảng Giao, Trịnh Ba
  7. Tổng Long Xương có 7 làng: Anh Mao, Cù Mỹ, Hương Sa, Lâm Xuân, Thanh Hóa, Xuân Khai, Xuân Sơn

Năm 1939

Tỉnh Bà Rịa có 1 quận Long Điền với 8 tổng:

  1. Tổng An Phú Hạ có 5 làng: Long Phước, Long Kiển, Long Tân, Long Xuyên, Phước Lễ
  2. Tổng An Phú Tân có 6 làng: Hội Bài, Long Hương, Phú Mỹ, Núi Nứa, Phước Hòa, Thạnh An
  3. Tổng An Phú Thượng có 6 làng: An Ngãi, An Nhứt, Hắc Lăng, Long Thạnh, Long Điền, Phước Tĩnh
  4. Tổng Phước Hưng Hạ có 6 làng: Phước Bửu, Phước Thọ, Phước Tuy, Thạnh Mỹ, Xuân Khai, Xuyên Mộc
  5. Tổng Phước Hưng Trung có 5 làng: Gia Thạnh, Long Hòa, Phước Hiệp, Phước Lợi, Thới Hòa
  6. Tổng Phước Hưng Thượng có 5 làng: Lộc An, Long Mỹ, Hội Mỹ, Phước Hải, Tam Phước
  7. Tổng Cơ Trạch có 15 làng: Bình Ba, Bình Giã, Cù Bị, Cù Khanh, Cù Mi, Điền Dã, Hắc Dịch, La Sơn, Lâm Xuân, La Văn, Phước Chí, Ngãi Giao, Quảng Giao, Xuân Sơn, Bằng La
  8. Tổng Nhơn Xương có 5 làng: Hưng Nhơn, Thanh Toa, Nhu Lâm, Thừa Tích, Trịnh Ba

Liên kết ngoài