Bùi Tá Hán

Bùi Tá Hán (chữ Hán: 裴佐漢; 1496-1568)[1], là một danh tướng có công khôi phục nhà Hậu Lê (thời Lê Trung Hưng, 1533-1789) trong lịch sử Việt Nam.

Bùi Tá Hán
Tổng Trấn Quảng Nam
Tại vị1565 - 1568
Tiền nhiệmNguyễn Phúc Xà
Kế nhiệmNguyễn Bá Quýnh
Thông tin chung
Sinh1496
Hoan Châu, Nghệ An
Mất1568
Quảng Nam Đại Việt
Thụy hiệu
Trấn Quận Công.
Gia TộcHọ Bùi

Hành trạng cuộc đời

Các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định rõ thân thế của ông, chỉ biết Bùi Tá Hán là người Châu Hoan (nay là Nghệ An) và là cận thần của danh tướng Nguyễn Kim.

Tháng 6 (âm lịch) năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất Lê Cung Hoàng, lập ra nhà Mạc. Trung thành với nhà Hậu Lê, Bùi Tá Hán theo ngọn cờ "phù Lê diệt Mạc" của Nguyễn Kim, lập được nhiều công tích.

Sau khi nhà Hậu Lê được khôi phục (sử gọi là thời Lê Trung Hưng), năm 1545, dưới triều vua Lê Trang Tông, ông được phong làm Bắc quân đô đốc Phủ chưởng phủ sự, trấn nhậm ở Thừa tuyên Quảng Nam [2], rồi được ban tước Trấn quốc công (1546).

Theo "Phủ tập Quảng Nam ký sự" của Mai thị, thì Bùi Tá Hán là người có công lấy lại đất Quảng Nam từ tay nhà Mạc. Sau đó, ông đã thực hiện một số chính sách an dân, khuyến khích sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân ở vùng đất này.

Ông mất năm 1568, không rõ nguyên nhân,[3] như bia văn đã viết:

Nhân mã bất tri hà xứ khứ
Huyết y trường dữ thử bi lưu.

Có nghĩa là:

Người, ngựa chẳng biết đi về nơi nào
Chỉ có áo bào thấm máu lưu lại lời bia.

Sau khi mất, Bùi Tá Hán được truy tặng tước Thái bảo. Năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn, 1832), gia phong ông là Khuông quốc Tịnh biên Thọ phục thượng đẳng thần.Đến đời Tự Đức, các quan địa phương có dựng bia bên mộ ông, trên bia có khắc mấy chữ: "Cố Lê đô đốc Trần Quận Công chi mộ".


Theo quan điểm của các sử gia nhà Nguyễn, Bùi Tá Hán đã được liệt vào "nhân vật xứ Quảng Ngãi" [4].

Di tích

Lăng mộ Bùi Tá Hán được xây dựng tại khu rừng (là nơi đã tìm thấy áo bào của ông) ở làng Thu Phổ, nên gọi là Rừng Lăng. Đền thờ ông được xây dựng trên đỉnh núi Phước ở làng Thu Phổ nên gọi là Núi Ông.

Năm 1962, khi xây dựng Nhà máy Đường Thu Phổ, đền thờ ông được dời vào Rừng Lăng, nay thuộc phường Quảng Phú, thành phố Quảng Ngãi. Trong đền có bức tượng thờ ông và người hầu (thường gọi là Xích Y) với nhiều sắc phong của triều Tây Sơn và triều Nguyễn; nhiều thơ, liễn đối phúng điếu của các quan lại và các bậc túc nho trong tỉnh.

Đền thờ Bùi Tá Hán đã được cấp bằng Di tích Lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia theo quyết định số 168 ngày 2 tháng 3 năm 1990. Ở nhiều nơi trong tỉnh và trong vùng cũng có một số di tích và miếu thờ liên quan đến Bùi Tá Hán[5].

Chú thích

Tham khảo

  • Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí (Tập 2). Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính. Nhà xuất bản Thuận hóa. Huế. 1997.
  • Mai Thị, "Phủ tập Quảng Nam ký sự" (Lê Hồng Long, Vũ Sông Trà dịch) in trong Tư liệu thư tịch về di tích nhân vật lịch sử Bùi Tá Hán (1496-1568). Sở Văn hóa Thông tin Quảng Ngãi, 1996.
  • Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và xã hội. Hà Nội. 1992.