Bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA

bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA

Bảng xếp hạng FIFA (FIFA World Rankings) là hệ thống xếp hạng dành cho các đội tuyển bóng đá nam trực thuộc Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), với Argentina hiện đang là đội dẫn đầu. Các đội tuyển quốc gia thành viên của FIFA được xếp hạng bằng việc cộng điểm cho những trận thắng và trừ điểm đối với những trận thua, và đội nhiều điểm nhất sẽ được xếp hạng cao nhất. Tất cả các trận đấu cấp độ đội tuyển quốc gia đều được tính điểm trên bảng xếp hạng FIFA, bao gồm cả giao hữu. Các giải đấu trẻ (như Olympic, U20 World Cup, U23 châu Á, U23 châu Phi...) không được tính điểm.

FIFA World Rankings tính đến 21 tháng 12 năm 2023.[1]
20 đội bóng hàng đầu thế giới tính tới 21 tháng 12 năm 2023[1]
HạngThay đổiĐội tuyểnĐiểm
1Giữ nguyên Argentina1855.2
2Giữ nguyên Pháp1845.44
3Giữ nguyên Anh1800.05
4Giữ nguyên Bỉ1798.46
5Giữ nguyên Brasil1784.09
6Giữ nguyên Hà Lan1745.48
7Giữ nguyên Bồ Đào Nha1745.06
8Giữ nguyên Tây Ban Nha1732.64
9Giữ nguyên Ý1718.82
10Giữ nguyên Croatia1717.57
11Giữ nguyên Uruguay1665.99
12Giữ nguyên Hoa Kỳ1665.27
13Giữ nguyên Maroc1661.69
14Tăng 1 Colombia1655.29
15Giảm 1 México1652.7
16Giữ nguyên Đức1631.22
17Giữ nguyên Nhật Bản1620.19
18Giữ nguyên Thụy Sĩ1613.44
19Giữ nguyên Đan Mạch1601.31
20Giữ nguyên Sénégal1594.31
*Thay đổi so với 30 tháng 11 năm 2023
Bảng xếp hạng đầy đủ tại FIFA.com

Những trận đấu quan trọng hơn thì có ảnh hưởng nặng hơn cho việc giúp mang lại vị trí cao cho đội bóng, ví dụ như trận thắng tại World Cup được cộng nhiều điểm hơn trận đấu giao hữu, và chiến thắng trước một đội hạng cao sẽ được cộng nhiều điểm hơn thắng đội hạng thấp.

Bảng xếp hạng được giới thiệu lần đầu vào tháng 12 năm 1992. Hệ thống xếp hạng được sửa chữa sau World Cup 2006 với thông báo quan trọng về chuỗi xếp hạng mới được đưa ra vào ngày 12 tháng 6 năm 2009.

Trước hệ thống hiện nay, BXH được dựa trên thành tích của đội bóng trong 4 năm gần nhất, hiện tại hệ thống xếp hạng đã được cải tiến. Phiên bản hiện tại của hệ thống được sử dụng lần đầu tiên vào ngày 16 tháng 8 năm 2018, dựa trên hệ thống hệ số Elo dùng trong cờ vuacờ vây, xếp hạng các đội trên cơ sở tất cả các thời kì. Sự thay đổi trên để đáp lại sự chỉ trích cho rằng những thứ hạng không thể hiện cân xứng với sức mạnh thực tế của các đội tuyển. (xem phần Những sự chỉ trích). Bảng xếp hạng này vẫn có sự khác biệt so với Bảng xếp hạng Elo bóng đá thế giới (World Football Elo Ratings) và bảng xếp hạng RSSSF (Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation), điều này đã tạo ra nhiều điều chỉnh khác nhau cho bảng xếp hạng FIFA. Tuy nhiên thì bảng xếp hạng này vẫn luôn được mọi người sử dụng và tham khảo phổ biến hơn rất nhiều so với bảng xếp hạng Elo và RSSSF.

Lịch sử

Các đội dẫn đầu bảng xếp hạng FIFA

Vào tháng 12 năm 1992, FIFA lần đầu tiên công bố 1 danh sách thứ tự xếp hạng của các liên đoàn thành viên quy định 1 cơ sở để so sánh sức mạnh của các đội bóng. Từ tháng 8 năm sau, với sự tài trợ từ Coca Cola, danh sách được cập nhật thường xuyên hơn, được công bố trong đa số các tháng.[2] Những thay đổi quan trọng được tiến hành vào năm 1999 và 1 lần nữa vào năm 2006, để chống lại các chỉ trích nhằm vào hệ thống.[3] Số thành viên của FIFA tăng lên từ 167 thành 211 từ khi BXH ra đời. Trong lịch sử có một số trường hợp thành viên bị loại khỏi bảng xếp hạng vì không thi đấu 1 trận đấu quốc tế được công nhận nào trong hơn 4 năm, đó là São Tomé và Príncipe (từ tháng 12 năm 2007 đến tháng 11 năm 2011), Papua New Guinea (từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2011) và Quần đảo Cook (từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 3 năm 2022). Hiện tại tất cả 211 thành viên đang được thống kê trong các bảng xếp hạng.

Thay đổi năm 1999

Từ khi BXH ban đầu được giới thiệu, 1 đội nhận được 1 điểm cho 1 trận hòa và 3 điểm cho 1 trận thắng trong các trận thi đấu được FIFA công nhận, cũng tương tự như hệ thống tính điểm trong các giải đấu. Đây là 1 phương pháp tính toán khá đơn giản, nhưng FIFA đã nhanh chóng nhận ra rằng có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến các trận đấu quốc tế. Để đáp ứng các mục tiêu công bằng, khách quan và để so sánh chính xác sức mạnh tương xứng của nhiều quốc gia khác nhau, hệ thống được cập nhật. Các thay đổi chủ yếu như sau:

  • Bảng xếp hạng điểm được tăng cường bởi 10 nhân tố.
  • Phương pháp tính được thay đổi để đem vào các nhân tố tính toán bao gồm:
    • Số bàn thắng ghi được hay thừa nhận thua.
    • Trận đấu sân nhà hay sân khách.
    • Tính quan trọng của trận đấu hay cuộc thi.
    • Sức mạnh khu vực của đối thủ.
  • Một số điểm cố định được không nhất thiết trận đó thắng hay hòa.
  • Đội thua vẫn có thể nhận điểm.

2 danh hiệu mới được giới thiệu như là một phần của hệ thống:

Sự thay đổi đó làm cho hệ thống BXH phức tạp hơn, nhưng nó giúp cải thiện độ chính xác bởi vì nó đã toàn diện hơn.

Thay đổi năm 2006

FIFA thông báo rằng hệ thống xếp hạng được cải tiến sau World Cup 2006. Thời gian đánh giá được giảm bớt từ 8 năm xuống còn 4 năm, và 1 phương pháp tính toán đơn giản hơn được sử dụng cho đến bây giờ để quyết định vị trí xếp hạng.[4] Lợi thế số bàn thắng ghi được trên sân nhà hay sân khách không còn đem vào để tính toán nữa. Các khía cạnh khác như tầm quan trọng của các loại trận khác nhau đã được xem xét lại. Bộ phương pháp tính toán và bảng xếp hạng sửa đổi đầu tiên được thông báo vào ngày 12 tháng 7 năm 2006.

Sự thay đổi này được bắt nguồn ít nhất là từ một phần của cuộc chỉ trích lan rộng dành cho hệ thống xếp hạng trước kia. Nhiều người yêu bóng đá có cảm giác rằng nó không chính xác, đặc biệt khi so sánh với các hệ thống xếp hạng khác và cho rằng nó không đáp ứng đủ để phản ánh những thay đổi trong thành tích của từng đội bóng. Các thứ hạng cao đầy bất ngờ gần đây của Cộng hoà SécMỹ đã vấp phải sự hoài nghi và ảnh hưởng tiêu cực đến sự tín nhiệm vào hệ thống dưới con mắt của nhiều nhà thể thao. Màn trình diễn nghèo nàn và việc bị loại sớm của 2 đội bóng trên tại vòng chung kết World Cup 2006 làm xuất hiện lên lòng tin vào các chỉ trích.

Thay đổi năm 2018

Vào tháng 9 năm 2017, FIFA tuyên bố họ đang xem xét hệ thống xếp hạng mới và sẽ có quyết định cuối cùng sau khi vòng loại FIFA World Cup 2018 kết thúc nếu có bất kỳ thay đổi nào được thực hiện để cải thiện thứ hạng. FIFA thông báo vào ngày 10 tháng 6 năm 2018, rằng hệ thống xếp hạng mới sẽ được cập nhật sau FIFA World Cup 2018. Bắt đầu với bảng xếp hạng tháng 4 năm 2021, điểm của các đội hiện được tính đến hai điểm thập phân, thay vì được làm tròn đến số nguyên gần nhất.[5]

Các đội dẫn đầu

Từ khi hệ thống được giới thiệu, Đức là đội đầu tiên dẫn đầu sau khoảng thống trị kéo dài của họ khi đã 3 lần lọt vào trận chung kết của 3 VCK World Cup gần nhất và họ đã chiến thắng một trong 3 lần đó. Brasil nắm vị trí dẫn đầu trong hành trình đến World Cup 1994 sau khi thắng 8 và thua một trong 9 trận vòng loại, ghi được 20 bàn và để lọt lưới chỉ 4 bàn. Ý xếp đầu sau đó trong một thời gian ngắn khi đã hoàn thành thành công đợt vòng loại World Cup, sau đó đã bị Đức lấy lại. Sự thành công trong chiến dịch vòng loại dài giúp cho Brasil dẫn đầu BXH trong một thời gian ngắn. Đức lại dẫn đầu trong suốt VCK World Cup 1994, cho đến khi Brasil vô địch kì World Cup đó giúp họ có được một thời gian dẫn đầu rất lâu gần 7 năm cho đến khi họ bị vượt qua bởi Pháp, 1 đội mạnh trong thời gian đó khi đã vô địch World Cup 1998Euro 2000. Thành công tại World Cup 2002 giúp cho Brasil lấy lại vị trí đầu và giữ đến tháng 2 năm 2007, khi Ý trở lại dẫn đầu lần đầu tiên kể từ năm 1993 sau khi vô địch World Cup 2006 tổ chức tại Đức. Một tháng sau, Argentina lên thế chỗ Ý nhưng đã bị Ý lấy lại vào tháng 4. Sau chiến thắng tại Copa América 2007 vào tháng 7, Brasil trở lại nhưng chỉ 3 tháng sau vị trí này đã thuộc về Argentina. Vào tháng 7 năm 2008, Tây Ban Nha tiếp quản vị trí dẫn đầu lần đầu tiên sau khi vô địch Euro 2008. Brasil xếp thứ 6 nhưng đã trở lại dẫn đầu sau chiến thắng tại FIFA Confederations Cup 2009.

Mục đích của bảng xếp hạng

BXH được dùng bởi FIFA để xếp hạng sự phát triển và khả năng của các đội bóng thuộc các quốc gia thành viên, và đòi hỏi họ tạo nên "1 thước đo chính xác để so sánh các đội".[2] Chúng được dùng như một phần kết quả tính toán, hay 1 cơ sở toàn bộ để chọn hạt giống cho các giải đấu. Tại vòng loại World Cup 2010, BXH sẽ được sử dụng để chọn hạt giống cho các bảng trong các vòng loại khu vực thành viên bao gồm CONCACAF (sử dụng BXH tháng 5), CAF (sử dụng BXH tháng 7), và UEFA sử dụng BXH tháng 11 năm 2007.

Ngoài ra BXH này còn dùng để quyết định người đoạt 2 giải thưởng cho các đội bóng quốc gia hàng năm dựa trên cơ sở thành tích trong BXH.

Những sự chỉ trích

Từ khi giới thiệu vào năm 1993, BXH FIFA đã là vấn đề của nhiều cuộc tranh luận, đặc biệt là về cách tính kết quả và những cách biệt thông thường về đẳng cấp và thứ hạng giữa một vài đội bóng. Ví dụ như Na Uy được xếp hạng 2 vào tháng 10 năm 1993tháng 7-8 năm 1995,[6]Mỹ xếp hạng 4 năm 2006, thực sự ngạc nhiên ngay cả với các cầu thủ của chính họ.[7] Tuy nhiên, những sự chỉ trích về BXH không chân thực vẫn tiếp diễn ngay cả sau khi đưa ra công thức tính mới, với việc Israel leo lên hạng 15 vào tháng 11 năm 2008 cũng làm cho báo chí nước này rất bất ngờ,[8][9][10] với việc Israel bỏ lỡ cơ hội lớn để chen chân vào top 10 sau khi thua Latvia tại lượt cuối của vòng loại.[11]

Trước tháng 7 năm 2006, một trong những chỉ trích chính là BXH được tính bởi thành tích của đội bóng trong vòng 8 năm, và vị trí xếp hạng của đội không liên quan gì đến thành tích gần đây của đội.[6][12] Sự chỉ trích này được giảm đôi chút với việc giới thiệu công thức tính mới, kết quả được tính trong 4 năm, giới thiệu vào tháng 7 năm 2006.

Sự thiếu sót được nhận thấy trong hệ thống của FIFA đã bắt đầu cho sự hình thành một số BXH khác từ những nhà thống kê về bóng đá [6] bao gồm Hệ số Elo bóng đáRSSSF (Tổ chức thống kê nghiệp dư bóng đá thế giới).

Phương pháp tính toán gần đây

Vào ngày 10 tháng 6 năm 2018, hệ thống xếp hạng mới đã được FIFA phê chuẩn. Nó dựa trên hệ thống xếp hạng Elo và sau mỗi trận đấu, điểm sẽ được cộng hoặc trừ vào xếp hạng của đội theo công thức:

Trong đó:

: số điểm của đội trước trận đấu

: hệ số quan trọng, được xác định bởi:

  • 5: trận giao hữu diễn ra bên ngoài lịch thi đấu giao hữu quốc tế
  • 10: trận giao hữu diễn ra trong lịch thi đấu giao hữu quốc tế
  • 15: các trận đấu của giải vô địch bóng đá các quốc gia (vòng bảng)
  • 20: các trận đấu của giải vô địch bóng đá các quốc gia (vòng play-off và trận chung kết)
  • 25: các trận thuộc vòng loại các giải đấu cấp châu lục, vòng loại FIFA World Cup
  • 35: các trận thuộc vòng chung kết các giải đấu cấp châu lục (trước tứ kết)
  • 40: các trận thuộc vòng chung kết các giải đấu cấp châu lục (tứ kết và sau đó), các trận đấu của Cúp Liên đoàn các châu lục (FIFA Confederations Cup)
  • 50: các trận đấu trước tứ kết của FIFA World Cup
  • 60: các trận đấu của FIFA World Cup (tứ kết và sau đó)

: hệ số kết quả trận đấu

  • 0: thua trong thời gian thi đấu chính thức hoặc hiệp phụ
  • 0,5: hòa hoặc thua trong loạt sút luân lưu
  • 0,75: thắng trong loạt sút luân lưu
  • 1: giành chiến thắng trong thời gian thi đấu hoặc hiệp phụ

: kết quả mong đợi của trận đấu (hay điểm thưởng, được hiểu là "sức mạnh" chênh lệch giữa hai đội trước trận đấu), được tính bởi công thức

trong đó là chênh lệch điểm số giữa hai đội trước trận đấu.

Điểm tiêu cực trong giai đoạn loại trực tiếp của các giải đấu sẽ không làm ảnh hưởng đến xếp hạng của các đội.

Công thức tính toán giai đoạn 1993-1999

Công thức xếp hạng giai đoạn 1993-1999 rất đơn giản và nhanh chóng trở nên được chú ý đến vì thiếu các nhân tố phụ. Các đội nhận được 3 điểm cho 1 trận thắng và 1 điểm cho 1 trận hòa.

Công thức tính toán giai đoạn 1999-2006

Vào năm 1999, FIFA giới thiệu một hệ thống tính toán được sửa đổi, kết hợp nhiều thay đổi trong sự trả lời những sự chỉ trích về bảng xếp hạng không thích hợp. Để xếp hạng tất cả các trận đấu, số bàn thắng và tính quan trọng của trận đấu được ghi lại, và được sử dụng cho thủ tục tính toán. Chỉ các trận của các đội tuyển quốc gia nam lớn tuổi mới được tính. Các hệ thống xếp hạng riêng rẽ được dùng cho các cấp khác như các đội tuyển nữ và tuyển trẻ, ví dụ như Bảng xếp hạng bóng đá nữ FIFA. Bảng xếp hạng bóng đá nữ đã và đang dựa một hệ thống như là một kiểu của Hệ số Elo bóng đá thế giới.[13]

Giải thưởng

Mỗi năm FIFA trao 2 giải thưởng cho các quốc gia thành viên, dựa vào thành tích trên bảng xếp hạng. Đó là:

Đội bóng của năm

Giải thưởng "Đội tuyển của năm" được trao hàng năm cho đội xếp hạng cao nhất trên Bảng xếp hạng FIFA của tháng 12, ngoại trừ các năm 2000 và 2001. Trong hai năm này, phương thức tính điểm khác được sử dụng để xác định đội vô địch. Cụ thể, đội chiến thắng sẽ là đội tuyển quốc gia có điểm trung bình cao nhất trong bảy trận đấu hay nhất của họ trong năm qua tính đến ngày 31 tháng 12.[14][15]

Argentina vừa mới giành danh hiệu "Đội tuyển của năm" lần thứ ba trong lịch sử 30 năm của giải thưởng, nâng tổng số lần chiến thắng lên con số ấn tượng. Brazil vẫn đang nắm giữ kỷ lục về chuỗi chiến thắng dài nhất (7 lần liên tiếp từ năm 1994 đến 2000) và tổng số lần chiến thắng nhiều nhất (13 lần).

NămHạng nhấtHạng nhìHạng ba
1993  Đức  Ý  Brasil
1994  Brasil  Tây Ban Nha  Thụy Điển
1995  Brasil  Đức  Ý
1996  Brasil  Đức  Pháp
1997  Brasil  Đức  Cộng hòa Séc
1998  Brasil  Pháp  Đức
1999  Brasil  Cộng hòa Séc  Pháp
2000  Brasil  Pháp  Argentina
2001  Pháp  Argentina  Brasil
2002  Brasil  Pháp  Tây Ban Nha
2003  Brasil  Pháp  Tây Ban Nha
2004  Brasil  Pháp  Argentina
2005  Brasil  Cộng hòa Séc  Hà Lan
2006  Brasil  Ý  Argentina
2007  Argentina  Brasil  Ý
2008  Tây Ban Nha  Đức  Hà Lan
2009  Tây Ban Nha  Brasil  Hà Lan
2010  Tây Ban Nha  Hà Lan  Đức
2011  Tây Ban Nha  Hà Lan  Đức
2012  Tây Ban Nha  Đức  Argentina
2013  Tây Ban Nha  Đức  Argentina
2014  Đức  Argentina  Colombia
2015  Bỉ  Argentina  Tây Ban Nha
2016  Argentina  Brasil  Đức
2017  Đức  Brasil  Bồ Đào Nha
2018  Bỉ  Pháp  Brasil
2019  Bỉ  Pháp  Brasil
2020  Bỉ  Pháp  Brasil
2021  Bỉ  Brasil  Pháp
2022  Brasil  Argentina  Pháp
2023  Argentina  Pháp  Anh

Thành tích của các quốc gia

Đội bóngHạng nhấtHạng nhìHạng ba
 Brasil13 (1994, 1995, 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2022)5 (2007, 2009, 2016, 2017, 2021)5 (1993, 2001, 2018, 2019, 2020)
 Tây Ban Nha6 (2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013)1 (1994)3 (2002, 2003, 2015)
 Bỉ5 (2015, 2018, 2019, 2020, 2021)00
 Đức3 (1993, 2014, 2017)6 (1995, 1996, 1997, 2008, 2012, 2013)4 (1998, 2010, 2011, 2016)
 Argentina3 (2007, 2016, 2023)4 (2001, 2014, 2015, 2022)5 (2000, 2004, 2006, 2012, 2013)
 Pháp1 (2001)9 (1998, 2000, 2002, 2003, 2004, 2018, 2019, 2020, 2023)4 (1996, 1999, 2021, 2022)
 Hà Lan02 (2010, 2011)3 (2005, 2008, 2009)
 Ý02 (1993, 2006)2 (1995, 2007)
 Cộng hòa Séc02 (1999, 2005)1 (1997)
 Thụy Điển001 (1994)
 Colombia001 (2014)
 Bồ Đào Nha001 (2017)
 Anh001 (2023)

Đội bóng tiến bộ nhất của năm

Giải thưởng Đội bóng tiến bộ nhất của năm được trao cho đội tuyển có sự thăng hạng ấn tượng nhất trên Bảng xếp hạng FIFA trong suốt cả năm. Tuy nhiên, giải thưởng này không chỉ đơn giản là dành cho đội bóng leo hạng nhiều nhất, mà còn dựa trên một phép tính phức tạp để tính đến việc kiếm thêm điểm càng khó khăn khi đội bóng càng xếp hạng cao.[2]

Trước khi Bảng xếp hạng FIFA được cải tổ vào tháng 7 năm 2006, cách tính điểm 'Đội bóng tiến bộ nhất' sử dụng công thức đơn giản sau: Điểm tiến bộ = Số điểm cuối năm (z) * Số điểm kiếm được trong năm (y). Đội tuyển nào có chỉ số cao nhất sau khi tính toán theo công thức này sẽ giành được danh hiệu. Bảng dưới đây liệt kê top 3 đội bóng tiến bộ nhất của mỗi năm trong giai đoạn 1993-2006.[16]

Từ năm 1993 đến năm 2006, Giải thưởng 'Đội bóng tiến bộ nhất' được trao cho huấn luyện viên của đội tuyển bóng đá quốc gia chiến thắng tại Lễ hội Cầu thủ FIFA hàng năm.[17][18]

Năm[16]Hạng nhấtHạng nhìHạng ba
1993  Colombia  Bồ Đào Nha  Maroc
1994  Croatia  Brasil  Uzbekistan
1995  Jamaica  Trinidad và Tobago  Cộng hòa Séc
1996  Nam Phi  Paraguay  Canada
1997  Nam Tư  Bosna và Hercegovina  Iran
1998  Croatia  Pháp  Argentina
1999  Slovenia  Cuba  Uzbekistan
2000  Nigeria  Honduras  Cameroon
2001  Costa Rica  Úc  Honduras
2002  Sénégal  Wales  Brasil
2003  Bahrain  Oman  Turkmenistan
2004  Trung Quốc  Uzbekistan  Bờ Biển Ngà
2005  Ghana  Ethiopia  Thụy Sĩ
2006  Ý  Đức  Pháp

FIFA không trao giải thưởng chính thức cho sự thăng hạng của các đội tuyển quốc gia kể từ năm 2006. Tuy nhiên, họ vẫn công bố danh sách "Những đội thăng hạng tốt nhất" trong bảng xếp hạng mỗi năm.[19][20][21][22] Một ví dụ về giải thưởng "Đội thăng hạng của năm" không chính thức là sự công nhận của FIFA dành cho Colombia vào năm 2012.[23]

Từ năm 2007, "Đội thăng hạng của năm" được xác định dựa trên sự chênh lệch giữa số điểm Bảng xếp hạng FIFA của đội tuyển vào cuối năm và số điểm của họ 12 tháng trước đó. Phương pháp này được áp dụng cho tất cả các năm tiếp theo.[22]

NămTiến bộ nhấtThứ haiThứ baTham khảo
2007  Mozambique[21] (+245 điểm)  Na Uy (+240 điểm)  New Caledonia (+220 điểm)[19][24]
2008  Tây Ban Nha[21] (+314 điểm)  Montenegro (+245 điểm)  Nga (+242 điểm)[25]
2009  Brasil[21] (+322 điểm)
 Algérie (+322 điểm)
 Slovenia (+235 điểm)[26]
2010  Hà Lan[21] (+435 điểm)  Montenegro (+368 điểm)  Botswana (+316 điểm)[27][28]
2011  Wales (+330 điểm)  Sierra Leone (+302 điểm)  Bosna và Hercegovina (+287 điểm)[22]
2012  Colombia (+455 điểm)  Ecuador (+365 điểm)  Mali (+337 điểm)[23][29]
2013  Ukraina (+312 điểm)  Armenia (+259 điểm)  Hoa Kỳ (+237 điểm)[30]
2014  Đức (+407 điểm)  Slovakia (+334 điểm)  Bỉ (+317 điểm)[31]
2015  Thổ Nhĩ Kỳ (+329 điểm)  Hungary (+313 điểm)  Nicaragua (+295 điểm)[32]
2016  Pháp (+437 điểm)  Peru (+321 điểm)  Ba Lan (+311 điểm)[33]
2017  Đan Mạch (+456 điểm)  Thụy Điển (+323 điểm)  Bolivia (+315 điểm)[34]
2018  Pháp (+165 điểm)  Uruguay (+151 điểm)  Kosovo (+133 điểm)[35]
2019  Qatar (+138 điểm)  Algérie (+135 điểm)  Nhật Bản (+89 điểm)[36]
2020  Hungary (+44 điểm)  Ecuador (+41 điểm)  Malta (+32 điểm)[37]
2021  Canada (+130.32 điểm)  Ý (+115.77 điểm)  Argentina (+108.51 điểm)[38]
2022  Maroc (+142.42 điểm)  Croatia (+106.88 điểm)  Argentina (+87.87 điểm)[39]
2023  Panama (+83.92 điểm)  Moldova (+63.72 điểm)  Malaysia (+56.27 điểm)[40]

Xem thêm

Tham khảo

Liên kết ngoài