Binh chủng Tăng – Thiết giáp, Quân đội nhân dân Việt Nam

Binh chủng Tăng - Thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam là một binh chủng trong tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam, chịu trách nhiệm tác chiến đột kích trên bộ và đổ bộ (hải quân), được trang bị các loại xe tăng, xe bọc thép, với hỏa lực mạnh, sức cơ động cao. Ngày truyền thống: 5 tháng 10

  • Trụ sở Bộ Tư lệnh: Quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
Binh chủng Tăng Thiết giáp
Quân đội Nhân dân Việt Nam
Chỉ huy
Quốc gia Việt Nam
Thành lập5 tháng 10 năm 1959; 64 năm trước (1959-10-05)
Quân chủng Lục quân
Phân cấpBinh chủng (Nhóm 4)
Nhiệm vụBinh chủng chiến đấu
Quy mô9.000 người
Bộ phận củaBộ Quốc phòng
Bộ chỉ huyHoàng Quốc Việt, Hà Nội
Khẩu hiệuĐã ra quân là đánh thắng
Chỉ huy
Tư lệnh
Chính ủy
Tham mưu trưởng
Hồ Viết Trương

Lịch sử hình thành

Từ giữa năm 1955, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã tuyển chọn nhiều cán bộ chiến sĩ tập trung để đưa đi học bổ túc văn hóa tại Trường Văn hóa Quân đội, với mục đích tạo nguồn để đào tạo cán bộ sĩ quan cả về chỉ huy, tham mưu và các quân binh chủng kỹ thuật, trong đó có binh chủng thiết giáp.

Tháng 8 năm 1956, 2 đoàn cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn cử đi Trung Quốc để đào tạo về tăng - thiết giáp. Đoàn thứ nhất gồm 55 người, do ông Đào Huy Vũ làm đoàn trưởng, học về chỉ huy kỹ thuật và xe tăng-thiết giáp. Đoàn thứ hai có 147 người, học kỹ thuật vận hành và đảm bảo kỹ thuật xe[1]. Từ cuối tháng 7 năm 1959, các đoàn học viên lần lượt tập trung tại một doanh trại quân đội ở thành phố Quế Lâm (Quảng Tây, Trung Quốc). Tháng 8 năm 1959, gần 100 xe tăng T-34 đầu tiên được chuyển thuộc cho đoàn học viên xe tăng Việt Nam, đánh số từ 100 trở đi.

Cũng trong tháng 8 năm 1959, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng một căn cứ huấn luyện xe tăng, lấy mật danh là Công trường 92, tại khu vực núi Đanh thuộc xã Kim Long, huyện tam đảo, tỉnh Vĩnh phú (nay thuộc huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc)[2]. Ngày 2 tháng 9 năm 1959, Thiếu tướng Trần Văn Quang, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam sang Trung Quốc thăm đoàn học viên và thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ra Nghị định số 449/NĐ, quyết định thành lập trung đoàn xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam mang phiên hiệu 202[3][4]. Tuy nhiên, mãi 3 ngày sau, ngày 5 tháng 10 năm 1959, Bộ Quốc phòng mới ký quyết định thành lập một đơn vị thiết giáp cấp trung đoàn trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh, lấy phiên hiệu là Trung đoàn 202, mang mật danh H02, do Thiếu tá Đào Huy Vũ làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đặng Quang Long làm Chính ủy[1]. Ngày 5 tháng 10 về sau trở thành ngày truyền thống của Binh chủng Tăng - Thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sau khi thành lập, Đoàn H02 lần lượt được đưa về nước, làm nòng cốt để tiếp tục huấn luyện theo thực tế trong nước. Ngày 13 tháng 7 năm 1960, những chiếc xe tăng T-34 và pháo tự hành SU-76 và một số xe chuyên dụng đã được chuyên chở bằng tàu hỏa từ Trung Quốc về tới Việt Nam[2]. Đúng 17 giờ, những chiếc xe tăng T-34 do Liên Xô viện trợ đã được chuyển bằng xe lửa về tới ga Vĩnh Yên. 18 giờ 33 phút, chiếc xe tăng mang số hiệu 114 do trung sĩ Đào Văn Bàn điều khiển đã in vết xích đầu tiên trên mảnh đất Việt Nam.

Cũng trong năm 1960, một số đoàn học viên khác cũng được gửi đi Liên Xô để được đào tạo nâng cao và học về loại T-54 hiện đại hơn. Tuy nhiên, do những bất đồng chính trị, từ cuối năm 1964, Việt Nam không gửi các đoàn học viên sang học nữa.[5]

Ngày 1 tháng 3 năm 1961, đại đội huấn luyện, mật danh C12, được thành lập để huấn luyện đào tạo cho Sư đoàn 308 một tiểu đoàn xe tăng với quân số 172 người, đào tạo cho Bộ 10 cán bộ, 150 thợ sửa chữa xe tăng, thiết giáp và 2 đại đội xe bọc thép với quân số 164 người.[6]

Cuối tháng 3 năm 1961, Việt Nam tiếp nhận giúp Lào 44 xe tăng lội nước PT-76. Một lớp tập huấn gồm 26 cán bộ, chiến sĩ được các chuyên gia Liên Xô hướng dẫn sử dụng và bảo dưỡng, để sau đó bàn giao và huấn luyện lại cho quân đội Pathet Lào.[6]

Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm một số trang bị mới bao gồm 19 xe PT-76, 11 xe T-54, 1 xe T-10, 4 xe dắt T-34 do Liên Xô viện trợ. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 72 xe T-34, 11 xe T-54, 31 xe PT-76. Lúc này, tổng số xe tăng thiết giáp và các xe hỗ trợ của Việt Nam đã có là 164 chiếc các loại.[6]

Ngày 22 tháng 6 năm 1965, trung đoàn xe tăng thứ hai được thành lập trên cơ sở các học viên từ Liên Xô về cùng với những chiếc T-54 được viện trợ, mang phiên hiệu 203. Bộ Tư lệnh Thiết giáp cũng được thành lập. Trung tá Đào Huy Vũ, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 202 được cử là Phó Tư lệnh, đảm nhận quyền Tư lệnh. Trung tá Lê Ngọc Quang được cử làm Chính ủy.

Quá trình chiến đấu

Cuối tháng 1 năm 1968, lực lượng tăng thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam tham chiến lần đầu tiên tại Trận Tà Mây (chiến dịch đường 9 - Khe Sanh). 20 giờ ngày 23-1-1968, bộ đội xe tăng với trang bị là xe tăng hạng nhẹ PT-76 đã chở bộ binh đánh thẳng vào bên trong cứ điểm Tà Mây, dùng hỏa lực đánh sập lô cốt, ụ súng, khiến quân địch tháo chạy. Ngày 7/2/1968, tại Trận Làng Vây, bộ đội tăng - thiết giáp với 14 xe PT-76 đã chi viện cho bộ binh tiêu diệt cứ điểm Làng Vây. Ngày 7/2 trở thành ngày kỷ niệm đánh thắng trận đầu của bộ đội Tăng thiết giáp.

Từ năm 1971 trở đi, các đơn vị xe tăng - thiết giáp dần phát triển, hình thành các đơn vị trực thuộc binh chủng và trực thuộc các quân khu, quân đoàn.

Trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, bộ đội Tăng thiết giáp với trang bị 88 xe tăng đã cùng các đơn vị bạn đập tan cuộc tấn công của địch, góp phần bảo vệ con đường vận chuyển chiến lược Đường mòn Hồ Chí Minh.

Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, với lực lượng khoảng 10 tiểu đoàn, trang bị 322 xe tăng, xe thiết giáp các loại, lực lượng tăng thiết giáp Việt Nam đã tham gia nhiều chiến dịch, đánh 82 trận, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật, phương pháp tác chiến và giành nhiều thành tích, tiêu diệt được hàng trăm xe tăng - xe thiết giáp và hàng nghìn bộ binh của địch.

Từ năm 1973 đến năm 1974, trên chiến trường Nam Bộ, bộ đội tăng thiết giáp đã tham gia 26 trận chiến đấu, bảo vệ vùng giải phóng và tuyến đường vận tải chiến lược 559 (Đường Hồ Chí Minh).

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng tư lệnh đã huy động 398 xe tăng, thiết giáp (gồm cả vài chục xe chiến lợi phẩm vừa tịch thu được) tiến vào chiến đấu, dẫn đầu đội hình năm cánh quân giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Đại đội trưởng đại đội xe tăng 4 Bùi Quang Thận đã cắm lá cờ chiến thắng trên nóc Dinh Độc Lập. Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng là người thay mặt Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam tiếp nhận sự đầu hàng của Tổng thống chế độ Sài Gòn Dương Văn Minh ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tính chung từ năm 1968 cho đến hết năm 1975, bộ đội tăng thiết giáp đã tham gia chiến đấu trong 14 chiến dịch, 211 trận đánh. Thành tích được ghi nhận là đã diệt 2 vạn bộ binh, phá hủy gần 2.000 xe tăng - xe thiết giáp và 870 xe quân sự các loại; đánh sập 3.500 lô cốt, ụ súng và trận địa pháo; bắn chìm hoặc bắn cháy 18 tàu, xuồng chiến đấu; bắn rơi 35 máy bay các loại, hỗ trợ các đơn vị bạn thu giữ 1.672 xe tăng - xe thiết giáp, 250 súng cối và nhiều trang thiết bị quân sự của địch.

Ngày 20 tháng 10 năm 1976, Binh chủng Tăng Thiết giáp được Quốc hội và Chính phủ Việt Nam tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tính đến năm 2014, đã có 38 tập thể và 14 cá nhân thuộc Binh chủng được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Binh chủng Tăng thiết giáp còn được tặng thưởng 1 Huân chương Hồ Chí Minh, 1 Huân chương Sao vàng, 1 Huân chương độc lập hạng Nhất, 5 Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì, Ba và hàng nghìn lượt tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân, Huy chương các loại.

Lãnh đạo Binh chủng Tăng Thiết Giáp

Cơ quan trực thuộc

Đơn vị cơ sở trực thuộc

  • Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp: Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Ngày truyền thống: 22 tháng 6 năm 1965
  • Trường Trung cấp Kỹ thuật Tăng - Thiết giáp: Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Ngày truyền thống 01 tháng 5 năm 1976.
  • Trường Trung cấp Kỹ thuật Tăng - Thiết giáp (Khu B): Nho Quan, Ninh Bình.
  • Trường Trung cấp Kỹ thuật Tăng - Thiết giáp (Phân hiệu miền Nam): thành lập ngày 18 tháng 1 năm 2024, tiền thân là trường Hạ sĩ quan xe tăng 1 [8]
  • Lữ đoàn Xe tăng 201 - Thị trấn Xuân Mai, thành lập ngày 18 tháng 11 năm 1971.
  • Lữ đoàn Xe tăng 215 - thành lập ngày 10 tháng 4 năm 1973.
  • Lữ đoàn Tăng - Thiết giáp 202

Chỉ huy, lãnh đạo binh chủng qua các thời kỳ

Tư lệnh Binh chủng

STTHọ tênThời gian tại chứcCấp bậc tại nhiệmChức vụ cuối cùngGhi chú
Đào Huy Vũ6.1965- 9.1971Trung tá

Thượng tá

Phó Tư lệnh, kiêm quyền Tư lệnh
1Nguyễn Thế Lâm10.1971- 11.1974Đại tá

Thiếu tướng (1974)

Tư lệnh chính thức đầu tiên
2Đào Huy Vũ12.1974-7.1980Đại tá

Thiếu tướng (1979)

3Lê Xuân Kiện8.1980- 12.1989Thiếu tướng
4Trần Doãn Kỷ6.1990- 11.1993Thiếu tướng
5Đoàn Sinh Hưởng12.1993- 11.2002Đại tá

Thiếu tướng (1999)

Trung tướng (2006)

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
6Lê Xuân Tấu12.2002- 5.2005Đại tá

Thiếu tướng (2003)

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
7Vũ Bá Đăng6.2005-4.2010Đại tá

Thiếu tướng (2006)

8Hoàng Trung Kiên5.2010-2013Đại tá

Thiếu tướng (2010)

9Nguyễn Khắc Nam10.2013-10.2019Đại tá

Thiếu tướng (2014)

10Đỗ Đình Thanh11.2019-NayĐại tá, Thiếu tướng (2020)

Chính ủy Binh chủng

STTHọ tênThời gian tại chứcCấp bậc tại nhiệmChức vụ cuối cùngGhi chú
1Lê Ngọc Quang1965-1972Trung tá, Thượng táChính ủy đầu tiên
2Phạm Thạch Tâm1973-2.1974Đại tá
3Phạm Sinh1974-2.1978Đại tá, Trung tướng
4Bùi Quỳ8.1980-9.1988Thiếu tướng (1984)
5Hoàng Đăng Huệ10.1988-2.1996Thiếu tướng
6Nguyễn Trọng Kiên2.1996-8.1998Đại tá
7Nguyễn Hữu Thìn9.1998-3.2004Thiếu tướng
Trung tướng
Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật
8Nguyễn Đức Khiển2004-2009Đại tá, Thiếu tướng (2006)Trung tướng (2010)
Cục trưởng Cục Tổ chức (2009-2014)
9Nguyễn Đức Cường2009-2012Đại tá, Thiếu tướng (2010)Phó Chính ủy Học viện Lục quân
10Nguyễn Thanh Hải2012-12.2014Đại tá, Thiếu tướng (2012)Phó Chính ủy Quân khu 3
11Vũ Mạnh Trí12.2014-4.2019Thiếu tướng (4.2015)
12Nguyễn Đức Dinh5.2019 - nayThiếu tướng 12.2019

Tham mưu trưởng Binh chủng

STTHọ tênThời gian tại chứcCấp bậc tại nhiệmChức vụ cuối cùngGhi chú
1Dương Đằng Giang1965-1967Thiếu táQuyền Tham mưu trưởng
2Dương Đằng Giang1967-1972Trung táTham mưu trưởng
3Lê Xuân Tấu1993-2002Đại tá

Thiếu tướng

Tư lệnh Binh chủngAnh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
4Nguyễn Đình Tâm?-2010Đại tá

Thiếu tướng

Phó Tư lệnh Quân đoàn 4Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
5Nguyễn Khắc Nam2011-3.2013Đại tá

Thiếu tướng

Tư lệnh Binh chùng
6Trần Tuấn Tú3.2013-10.2017Đại tá

Thiếu tướng

Phó Giám đốc Học viện Kỹ thuật Quân sự
7Đỗ Đình Thanh11.2017 -10.2019Đại táTư lệnh Binh chủng
8Hồ Viết Trương10.2019-nayĐại tá

Trang thiết bị

Xe tăng chiến đấu T-55 và bộ binh tham gia huấn luyện
ẢnhXeNguồn gốcLoạiPhiên bảnSố lượng hoạt độngChú thích
Xe tăng chiến đấu chủ lực/ Xe tăng hạng trung/ Xe tăng hạng nhẹ
T-90  NgaXe tăng chiến đấu chủ lựcT-90S

T-90SK

64[9]
T-62  Liên XôXe tăng chiến đấu chủ lựcT-6270[10][11]
T-54/55  Liên XôXe tăng hạng trung/Xe tăng chiến đấu chủ lựcT-54-1,

T-54-2,

T-54-3,

T-54A,

T-54B,

T-55,

T-55A,

T-54M,

T-55M3,

T-55M.

850[12]
Type-59  Trung QuốcXe tăng chiến đấu chủ lựcType-59, Type-59-I350[12]
T-34  Liên XôXe tăng hạng trungT-34-8550[11]Chủ yếu dùng để huấn luyện
M48 Patton  Hoa KỳXe tăng hạng trungM48A3, M67 ZippoKhông rõĐược niêm cất bảo quản
M41 Walker Bulldog  Hoa KỳXe tăng hạng nhẹM41A3Không rõĐược niêm cất bảo quản
M24 Chaffee  Hoa KỳXe tăng hạng nhẹM24 Chaffeekhông còn sử dụngSau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5/1954, QĐNDVN thu được 2 xe M24 còn hoạt động được và dùng vào nhiệm vụ huấn luyện hiệp đồng binh chủng. Cuối năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II bộ đội Việt Nam thu được thêm 1 xe M24 khác của quân Lon Nol trong tình trạng pháo không có kim hỏa, biên chế cho Đoàn thiết giáp 26. Ngày 1/4/1972, trong trận Xa Mát (Tây Ninh) mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, chiếc xe tăng này đã tham gia chi viện bộ binh đánh chiếm căn cứ bằng hỏa lực đại liên 12,7 mm. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chiếc M24 bị hỏng nặng không thể khôi phục đã được phá hủy tại trận địa. Đây cũng là trường hợp duy nhất ghi nhận M24 trực tiếp chiến đấu trong đội hình QĐNDVN.[cần dẫn nguồn][13]
M3 Stuart  Hoa KỳXe tăng hạng nhẹM5A1Không còn sử dụngNgày 25 tháng 5 năm 1971, Đại đội hỗn hợp tăng - thiết giáp đầu tiên mang phiên hiệu Đại đội 33 của Quân Giải phóng được thành lập, với vốn liếng đầu tiên là 6 xe chiến lợi phẩm M-24 (1), M-8 (1), M-5A1 (1) (chiến lợi phẩm trong trận phản công Cuộc hành quân Chenla II), M-41 (1) và M-113 (2) (chiến lợi phẩm trong trận phản công Cuộc hành quân Toàn Thắng TT02). Số này mất mát trong quá trình chiến đấu
Xe tăng lội nước
PT-76  Liên XôXe tăng lội nướcPT-76~300[12]
PT-85  Bắc Triều TiênXe tăng lội nướcPT-85150[14]
Type-63  Trung QuốcXe tăng lội nướcType-63150Được sử dụng bởi Hải quân đánh bộ Việt Nam [14]
Xe chiến đấu bộ binh
BMP-1  Liên XôXe chiến đấu bộ binhBMP-1150[15]
BMP-2  Liên XôXe chiến đấu bộ binhBMP-2150[15]
Xe thiết giáp chở quân
BTR-40  Liên XôXe thiết giáp chở quânBTR-40100
BTR-50  Liên XôXe thiết giáp chở quânBTR-50PK (Ob'yekt 750K)280[16]
BTR-60  Liên XôXe thiết giáp chở quânBTR-60PB500[15]
BTR-152  Liên XôXe thiết giáp chở quânBTR-152

Type 56: Phiên bản BTR-152 của Trung Quốc.

400[15]

160 xe Type 56.[17]

Một chiếc được chuyển thành xe cứu thương bọc thép để hỗ trợ bệnh viện dã chiến ở Bentiu, Nam Sudan, trong khuôn khổ sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại Nam Sudan.
M-113  Hoa KỳXe thiết giáp chở quânM-113A1, M-132A1 Zippo200[12]Thu được 1.635 chiếc M113A1 (Đã qua sử dụng) sau năm 1975.[17]

Được trang bị trong một số đơn vị bộ binh cơ giới

M3  Hoa KỳXe thiết giáp chở quân bán bánh xích.M3Không rõ còn sử dụng hay không.[18]
M8 Greyhound  Hoa KỳXe bọc thép hạng nhẹM8Không rõ còn sử dụng hay không.Chiến lợi phẩm sau năm 1975[19]
Type 63  Trung QuốcXe thiết giáp chở quânType 63-280[12]
Xe thiết giáp trinh sát
BRDM-1  Liên XôXe thiết giáp trinh sátBRDM-1150[12][15]
BRDM-2  Liên XôXe thiết giáp trinh sátBRDM-2150[12][15]
RAM-2000  IsraelXe thiết giáp trinh sátRAM-2000100[12][15]Trang bị cho lực lượng cảnh sát cơ động
Cadillac Gage Commando  Hoa KỳXe thiết giáp trinh sátCadillac Gage V-100 Commando, V-150.khoảng 150-200 chiếc[10]Chiến lợi phẩm sau năm 1975.

Được nâng cấp, thay thế vũ khí Mỹ bằng vũ khí Nga tại nhà máy Z751.

Pháo tự hành
SU-76  Liên XôPháo tự hànhSU-7630[20]Sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Việt Nam[21][22][23]
SU-100  Liên XôPháo tự hànhSU-100Không rõ[22][24]
ASU-85[25]  Liên XôPháo tự hànhASU-85Không rõNhận viện trợ từ Liên Xô, phía Việt Nam gọi là SU-85
2S1 Gvozdika  Liên XôPháo tự hành2S1 GvozdikaKhông rõNhận viện trợ từ Liên Xô[26], phía Việt Nam gọi là SU-122
2S3 Akatsiya  Liên XôPháo tự hànhSO-152 Akatsiya30[27]Nhận viện trợ từ Liên Xô[27], phía Việt Nam gọi là SU-152
Xe kĩ thuật- Xe đầu kéo
M578  Hoa KỳXe cứu kéo bọc thép hạng nhẹ.M578Không rõ còn sử dụng hay không.
BTS-4  Liên XôXe cứu kéo bọc thépBTS-4Không rõ
BREM-1M  NgaXe cứu kéo bọc thépBREM-1M2
MAZ-537  Liên XôXe đầu kéo hạng nặngMAZ-537Không rõ
KZKT  NgaXe đầu kéo hạng nặngKZKT-7428 RusichKhông rõ

Chú thích

Liên kết ngoài