Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa

Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (tiếng Anh: International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, viết tắt: ICESCR) là một công ước quốc tế được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966, có hiệu lực từ ngày 3 tháng 1 năm 1976. Các quốc gia tham gia Công ước phải cam kết trao các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cho các cá nhân, bao gồm quyền công đoàn và quyền chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục, và quyền được đảm bảo mức sống phù hợp. Tính tới ngày 15 tháng 12 năm 2008, đã có 160 quốc gia tham gia và 69 nước đã ký.[2] Thêm 6 nước khác đã ký nhưng chưa thông qua Công ước: Belize, Comoros, Cuba, São Tomé và Príncipe, Nam Phi, và Hoa Kỳ[2].

Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa
International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights (ICESCR)
{{{image_alt}}}
Bản đồ mô tả các quốc gia tham gia ICESCR:
  Ký và thông qua
  Ký nhưng không thông qua
  Không ký cũng không thông qua
Loại hiệp ướcNghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
Ngày thảo1954 [1]
Ngày kí16 tháng 12 năm 1966 [2]
Nơi kíTrụ sở Liên Hợp Quốc, New York
Ngày đưa vào hiệu lực3 tháng 1, 1976 [2]
Bên kí69 [2]
Bên tham gia160 [2]
Người gửi lưu giữTổng thư ký Liên Hợp Quốc
Ngôn ngữtiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha[2]
Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Văn hóa và Xã hội tại Wikisource

Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa là một phần của Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế, cùng với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyềnCông ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (gồm hai Nghị định thư tùy chọn thứ nhất và thứ hai)[1]

Công ước được đặt dưới sự giám sát của Ủy ban các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa.[3]

Việt Nam phê chuẩn Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa ngày 24 tháng 9 năm 1982.[2]

Nguồn gốc tên gọi

Tên gọi Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa bắt nguồn từ quá trình soạn thảo trùng với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Một bản "Tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người" đã được đưa ra tại hội nghị thành lập Liên Hợp Quốc năm 1945, tức Hội nghị San Francisco. Sau đó, Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc được giao trách nhiệm soạn thảo và hoàn thiện nó.[1] Mới đầu trong quá trình soạn thảo, bản thảo được chia nhỏ thành một tuyên ngôn về các quyền con người tổng quát và một bộ quy tắc ràng buộc các bên tham gia ký. Cái đầu tiên sau này trở thành Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và được thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948.[1]

Bộ các quy tắc được tiếp tục soạn thảo, nhưng lại nảy sinh nhiều bất đồng giữa các thành viên Liên Hợp Quốc về sự tương quan mức độ quan trọng của các quyền dân sự và chính trị đối với các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.[4], dẫn đến việc bộ quy tắc bị phân ra thành hai bộ nhỏ, "một cái chứa các quyền dân sự và chính trị, và cái kia chứa các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa".[5] Hai bộ nhỏ này, gọi là hai công ước, tiếp tục được hoàn thiện tới mức bao quát và đầy đủ nhất có thể, và sau đó được đưa ra cho các thành viên ký cùng lúc.[5] Mỗi Công ước đều chứa một điều khoản quy định quyền tự quyết của mọi dân tộc.[6]

Như vậy, Bộ quy tắc thứ nhất trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, trong khi cái thứ hai trở thành Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa. Cả hai bản thảo công ước được đưa ra thảo luận tại cuộc họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1954, và được chấp thuận vào năm 1966.[7]

Tóm tắt nội dung

Công ước dựa theo cấu trúc của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyềnCông ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, gồm có lời mở đầu và 31 điều nằm trong 5 phần.[8] Mở đầu Công ước là lời khẳng định chân lý bất di bất dịch rằng việc công nhận những phẩm giá vốn có và quyền bình đẳng của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lýhoà bình trên thế giới. Do vậy, các quốc gia hội viên có trách nhiệm công nhận các quyền kinh tế, xã hộivăn hóa của mọi cá nhân, cụ thể như sau:

Phần I (Điều 1) công nhận quyền của mọi dân tộc được tự định đoạt thể chế chính trị, đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa,[9] gồm cả quyền tự do định đoạt các nguồn tài nguyên của mình miễn là không làm phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế, dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong mọi trường hợp, không thế lực nào được phép tước đi quyền sinh kế của một dân tộc.[10] Đồng thời, các nước hội viên chịu trách nhiệm thúc đẩy và tôn trọng quyền tự quyết của các lãnh thổ được nước đó bảo hộ hoặc phụ thuộc vào nó.[11]

Phần II (Điều 2–5) thiết lập các nguyên tắc hiện thực hóa các quyền được Công ước bảo hộ. Nó quy định các quyền đó được công nhận mà không có sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các thân trạng khác.[12] Một quốc gia chỉ có thể đặt ra những hạn chế bằng các quy định pháp luật trong chừng mực những hạn chế ấy không trái với bản chất của các quyền nói trên và hoàn toàn vì mục đích "thúc đẩy phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ".[13]

Phần III (Điều 6–15) liệt kê cụ thể các quyền được Công ước bảo hộ. Cụ thể là:

  • Quyền của mọi cá nhân được hưởng những điều kiện làm việc "công bằng và thuận lợi",[14] và quyền tự do thành lập hoặc gia nhập các tổ chức công đoàn (Điều 6, 7, và 8);
  • Quyền được hưởng an sinh xã hội, gồm cả bảo hiểm xã hội (Điều 9);
  • Quyền tự do lập gia đình, bao gồm cả quyền của các bà mẹ được nghỉ dưỡng trước và sau khi sinh, và có các cơ chế bảo vệ trẻ em. (Điều 10);
  • Quyền được thụ hưởng mức sống phù hợp, bao gồm các khía cạnh về ăn, mặc, ở và được "không ngừng cải thiện đời sống" (Điều 11);
  • Quyền được hưởng một "tiêu chuẩn sức khoẻ về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể". (Điều 12);
  • Quyền được giáo dục, bao gồm phổ cập giáo dục tiểu học miễn phí, giáo dục phổ thông đại trà và quyền cơ hội tiếp cận bình đẳng các trường đại học. Những việc này nhắm tới mục tiêu "phát triển toàn diện nhân cách và ý thức về phẩm giá con người",[15] và tạo điều kiện cho tất cả mọi người tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội (Điều 13 và 14);
  • Quyền được tham gia vào đời sống văn hoá và hoạt động khoa học (Điều 15).

Nhiều trong số các quyền trên yêu cầu các hành động cụ thể để hiện thực hóa chúng.

Phần IV (Điều 16–25) quy định cách thức báo cáo và giám sát Công ước, cùng những bước mà các quốc gia hội viên phải tuân theo để thực thi Công ước. Chiếu theo quy định, Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc - bây giờ là Ủy ban các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa - chịu trách nhiệm giám sát và tham mưu cho Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về các biện pháp thích hợp để hiện thực hóa các quyền được bảo hộ.[16]

Phần V (Điều 26–31) quy định cách thức phê chuẩn, thời gian có hiệu lực và cách sửa đổi bổ sung sau này.

Nghị định thư bổ sung

Nghị đinh thư bổ sung Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa là một hiệp ước yêu cầu các quốc gia tham gia công nhận năng lực của Ủy ban các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa trong giải quyết khiếu nại của các cá nhân.[17] Việc tham gia Hiệp ước này không bắt buộc đối với nước

Nghị định thư bổ sung này được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 2008.[18] Nó được đưa ra cho các quốc gia ký ngày 24 tháng 9 năm 2009,[19]; tính tới tháng 12 năm 2010 đã có 35 nước ký và 3 nước phê chuẩn.[20] Hiệp ước sẽ chính thức có hiệu lực khi được ít nhất 10 nước phê chuẩn.[21]

Việt Nam chưa ký cũng chưa thông qua Nghị định thư bổ sung Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa.[20]

Xem thêm

Liên kết ngoài

Chú thích