David Seaman

cựu cầu thủ bóng đá người Anh

David Andrew Seaman, MBE (sinh ngày 19 tháng 9 năm 1963) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí thủ môn. Trong sự nghiệp kéo dài từ năm 1981 đến 2004, ông nổi tiếng nhất nhờ quãng thời gian chơi bóng cho câu lạc bộ Arsenal. Ông đã có tới 75 lần khoác áo đội tuyển Anh và là thủ môn có nhiều lần ra sân cho đội tuyển nước này chỉ sau Peter Shilton.[3] Năm 1997, ông được trao huân chương MBE nhờ những cống hiến cho bóng đá.

David Seaman
MBE
David Seaman (2012)
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủDavid Andrew Seaman[1]
Chiều cao6 ft 3 in (1,91 m)[2]
Vị tríThủ môn
Thông tin đội
Đội hiện nay
Wembley (huấn luyện viên thủ môn)
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
NămĐội
1981–1982Leeds United A.F.C.
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
NămĐộiST(BT)
1982–1984Peterborough United91(0)
1984–1986Birmingham City75(0)
1986–1990QPR141(0)
1990–2003Arsenal405(0)
2003–2004Manchester City19(0)
Tổng cộng731(0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
NămĐộiST(BT)
1984–1986U21-Anh10(0)
1987–1992Anh B6(0)
1988–2002Anh75(0)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Đỉnh cao sự nghiệp của Seaman nằm ở quãng thời gian ông làm thủ môn cho Arsenal và tuyển Anh ở các thập niên 1990 và 2000. Trong thời gia khoác áo Arsenal, ông đã giành 3 chức vô địch quốc gia (1991, 1998, 2002), 4 Cúp FA (1993, 1998, 2002, 2003), Cúp Liên đoàn Anh năm 1993 và Winners' Cup 1994. Ông cũng thi đấu cho tuyển Anh ở các chiến dịch giải vô địch thế giới (19982002) và giải vô địch châu Âu (19962000).

Pha cứu thua của Seaman trước cú dứt điểm của Paul Peschisolido từ đội Sheffield United tại trận bán kết Cúp FA 2002–03 được giới truyền thông miêu tả là một trong những pha cản phá hay nhất từ trước đến nay. Seaman từng được Sách Kỷ lục Guinness ghi danh nhờ thành tích bắt bóng rơi từ độ cao kỷ lục 102,5 m.[4][5] Những điểm trừ trong sự nghiệp của ông là hai lỗi nghiêm trọng mà ông mắc phải đều đến từ những tình huống sút xa — đầu tiên là bàn thủng lưới muộn phút bù giờ trong trận Chung kết Winners' Cup 1995 của Arsenal và bàn thủng lưới từ pha đá phạt của Ronaldinho bên phía Brasil tại từ kết giải vô địch thế giới 2002 của tuyển Anh.[6][7][8][9] Vốn là một người thuận trái,[10] song Seaman lại ném bóng bằng tay phải[11] và sút bóng bằng chân phải. Năm 2004 ông giải nghệ do tái phát chấn thương vai. Tháng 6 năm 2012, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện thủ môn của câu lạc bộ Wembley thuộc giải Combined Counties Football League.

Sự nghiệp cấp câu lạc bộ

Những năm khởi nghiệp

Seaman chào đời tại Rotherham, phân khu West Riding của hạt Yorkshire, Anh. Ông từng theo học tại Trường phổ thông hỗn hợp Kimberworth. Ông khởi nghiệp tại Leeds United – câu lạc bộ mà ông hâm mộ khi còn bé. Tuy nhiên ông lại không được huấn luyện của đội lúc bấy giờ là Eddie Gray (cầu thủ mà Seaman một thời mến mộ) để ý đến. Seaman chuyển đến câu lạc bộ Peterborough United ở giải hạng 4 với mức phí 4.000 bảng vào tháng 8 năm 1982 nhằm bắt đầu tạo dựng tên tuổi cho mình.

Chỉ trong hơn 2 năm sau, tháng 10 năm 1984, câu lạc bộ chơi ở giải hạng 2Birmingham City đã chi 100.000 bảng để có được sự phục vụ của Seaman. Sau cùng họ đã thăng hạng vào cuối mùa bóng, nhưng lại rớt hạng vào mùa kế tiếp. Tuy nhiên Seaman không ở lại đội chơi ở giải hạng 2 mà chuyển đến đầu quân cho Queens Park Rangers với mức phí 225.000 bảng vào tháng 8 năm 1986.

Arsenal

Năm 1990, rất lâu trước khi hệ thống chuyển nhượng bóng đá Anh đi vào hoạt động, các đội bóng có vài tuần để chuyển nhượng cầu thủ trước khi mùa bóng kết thúc. Arsenal – câu lạc bộ giành chức vô địch quốc gia năm 1989 – đã muốn ký hợp đồng với Seaman, nhưng trong thỏa thuận lại gắn điều khoản để John Lukic – thủ môn của chính Arsenal lúc ấy – ra đi theo chiều ngược lại, dưới dạng cho mượn. Lukic không chấp nhận điều khoản này nên thỏa thuận bị đổ vỡ và các bên đều lâm vào bế tắc. Ngay khi mùa bóng khép lại và các câu lạc bộ được phép tham gia thị trường chuyển nhượng lần nữa, huấn luyện viên của Arsenal, ông George Graham đã mua lại Seaman với phí 1,3 triệu bảng (giá kỷ lục cho một thủ môn người Anh lúc bấy giờ).[12] Trong khi đó, Lukic – người được cổ động viên Arsenal rất yêu thích – chuyển đến Leeds theo chiều ngược lại.

Quãng thời gian Seaman gắn bó với Arsenal là một trong những thời kì thành công nhất lịch sử câu lạc bộ. Mùa giải 1990–91 chứng kiến Seaman chỉ để lọt lưới 18 bàn trong suốt 38 trận của mùa bóng, qua đó giúp Arsenal bảo vệ thành công chức vô địch. Năm 1993, Arsenal đoạt cú đúp chức vô địch Cúp FA và Cúp Liên đoàn Anh, năm kế tiếp còn giành danh hiệu Winners' Cup. Arsenal khởi đầu chiến dịch vô địch Cúp Liên đoàn với trận gặp Millwall, sau hai lượt trận, trận so tài bước vào loạt sút luân lưu. Seaman cản phá ba trong bốn cú dứt điểm của Millwall lần lượt đến từ Malcolm Allen, Jon Goodman và Colin Cooper bên đội bạn, qua đó giúp Arsenal đi tiếp.[13]

Năm 1995, George Graham bị sa thải và Arsenal đứng trước cơ hội trở thành câu lạc bộ đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch Winners' Cup, khi mà Seaman nổi danh là một chuyên gia cản phá phạt đền sau chặn được những cú sút của Siniša Mihajlović, Vladimir Jugović và Attilio Lombardo tại loạt đá luân lưu trận bán kết của Arsenal với đại diện Sampdoria của Ý, dù phải thi đấu với hai rạn sườn bị gãy.[14] Tuy nhiên, Arsenal lại để thất bại trong trận chung kết trước Real Zaragoza tại Sân vận động Công viên các Hoàng tử ở Paris, khi Nayim ghi bàn ở phút cuối hiệp phụ với một cú lốp bóng tầm 40 yard đánh bại Seaman.[15][16]

Tháng 8 năm 1996, Arsène Wenger trở thành huấn luyện viên mới của Arsenal. Wenger là người đánh giá Seaman rất cao và vào năm 1998, thủ môn này đã góp công giúp đội bóng giành cú đúp vô địch Giải Ngoại hạng Anh và Cúp FA. Ở mùa bóng 1998–99, Seaman thi đấu tất cả 38 trận tại giải vô địch quốc gia, chỉ để lọt lưới 17 bàn nhưng không đủ để giúp Pháo thủ bảo vệ thành công chức vô địch Giải Ngoại hạng Anh, đồng thời để thua trận bán kết Cúp FA trước Manchester United. Mùa bóng kế tiếp, Seaman cùng Arsenal tiến đến trận Chung kết Cúp UEFA 2000 và hòa 0–0 với Galatasaray, nhưng để thất thủ trên chấm đá luân lưu.[17][18]

Năm 2002, Seamon đoạt ngôi vô địch Ngoại hạng Anh và Cúp FA lần nữa để hoàn tất cú đúp danh hiệu lần thứ 2 trong sự nghiệp của ông, mặc dù các thủ môn dự bị của Arsenal là Stuart Taylor (10 trận ra sân) và Richard Wright (12 trận ra) cũng được trao huân chương vô địch mùa bóng đó, chủ yếu bởi Seaman vắng mặt do chấn thương. Ông tạo nên điểm nhấn của mùa giải với pha cản phá cú đá phạt đền của Gareth Barry trong trận Arsenal thắng đội Aston Villa 2–1.[19]

Manchester City

Sau khi rời Arsenal, Seaman hội ngộ cùng huấn luyện viên Kevin Keegan tại câu lạc bộ Manchester City vào mùa hè năm 2003, nhưng sự nghiệp của Seaman tại Sân vận động Thành phố Manchester không kéo dài lâu. Do liên tục phải nghỉ thi đấu vì chấn thương, ông sớm tuyên bố treo găng vào tháng 1 năm 2004 ở tuổi 40. Hành động cuối của Seaman tại City là giúp đỡ Keegan lựa chọn người kế nhiệm ông, và ông đã lựa chọn David James – thủ môn từng chiếm vị trí số 1 trong khung gỗ tuyển Anh từ chính Seaman cách đó chưa đầy 1 năm.

Sự nghiệp quốc tế

Seaman có trận đá ra mắt tuyển Anh vào năm 1988 và góp mặt trên tuyển trong 15 năm tiếp – một kỷ lục của đội tuyển lúc bấy giờ (về sau bị Rio Ferdinand cân bằng). Ông có trận đeo găng đầu tiên cho tuyển Anh dưới trướng huấn luyện viên Bobby Robson trong trận giao hữu gặp Ả Rập Xê Út vào tháng 11 năm 1988. Robson đã lựa chọn ông ở vị trí thủ môn số 3 của tuyển Anh sau Peter Shilton và Chris Woods tại Giải vô địch thế giới 1990, nhưng sau khi đặt chân đến Ý thì lại phải rời đội tuyển sớm vì chấn thương, và người thay thế cho ông là Dave Beasant.

Seaman dần xây chắc vị trí của mình trong khung gỗ và trở thành thủ môn số 1 của tuyển Anh dưới đời huấn luyện viên Terry Venables, qua đó không bỏ một phút thi đấu nào tại giải vô địch châu Âu 1996. Ở giải đấu ấy, Seaman cản phá được 2 quả phạt đền. Quả đầu tiên là trước chân sút Gary McAllister của đội tuyển Scotland ở vòng bảng. Seaman chặn được cú đá trong lúc tuyển Anh vừa dẫn trước 1-0, không lâu sau Paul Gascoigne ghi bàn nâng tỷ số lên 2-0. Kế đó, ở trận tứ kết khi tuyển Anh và Tây Ban Nha bất phân thắng bại sau 90 phút thi đấu chính thức, ông đẩy được cú sút luân lưu của Miguel Ángel Nadal để loại Tây Ban Nha khỏi giải. Sau cùng tuyển Anh của ông bị loại bởi tuyển Đức trên chấm đá luân lưu ở trận bán kết, sau khi thủ môn Andreas Köpke của Đức đỡ được cú sút của Gareth Southgate.[20] Cùng với Alan Shearer – chủ nhân chiếc giày vàng của giải và tiền vệ cánh Steve McManaman, ông được vinh danh bằng một vị trí trong "Đội hình tiêu biểu của giải" do Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) lựa chọn.[21] Nhà tài trợ giải vô địch châu Âu năm 96 là Philips cũng tôn vinh Seaman là "Cầu thủ hay nhất giải".

Seaman vẫn là lựa chọn số một dưới quyền huấn luyện viên Glenn Hoddle tại giải vô địch thế giới 1998 tổ chức tại Pháp. Ông giữ sạch lưới hai trận ở vòng bảng giúp tuyển Anh cán địch ở vị trí thứ 2 sau România.[22][23] Ở vòng 16 đội, trong trận Anh chạm trán Argentina, cầu môn của Seaman bị thủng lưới bởi một quả phạt đền, đưa tỉ số trận đấu về thế quân bình 2-2, trước khi Anh để thua trên chấm luân lưu.[24] Kevin Keegan tiếp tục lựa chọn Seaman bắt bóng tại Giải vô địch châu Âu 2000,[25] nơi ông bắt đầu chiến dịch với các trận đấu gặp Bồ Đào Nha và Đức, nhưng rồi gặp chấn thương trong lúc khởi động cho trận thứ 3 đối đầu România, khiến vị trí gác đền của ông rơi vào tay Nigel Martyn. Kết quả là tuyển Anh thua trận và bị loại ngay sau vòng bảng.

Lối chơi

Ở thời đỉnh cao phong độ, Seaman được xem là một trong những thủ môn hay nhất thế giới trong thập niên 1990, qua đó nhận được nhiều khen ngợi từ các đồng nghiệp đàn anh như Sepp MaierFrancesco Toldo.[26][27] Là một thủ môn cao và dạn dày kinh nghiệm cùng thân hình to lớn, ông nổi tiếng nhờ bản lĩnh trận mạc, phản xạ tinh tường, nhanh nhẹn và cảm quan chọn vị trí xuất sắc, cũng như có khả năng xử lý bóng và phán đoán bóng tốt, cho phép ông có thể rời vòng cấm địa để chỉ huy khu vực của mình hiệu quả, làm cho giới truyền thông tặng cho ông biệt danh "safe hands" (đôi bàn tay an toàn).[28][29][30][31][32][33][34] Mặc dù không phải dạng thủ môn có lối chơi bóng hào nhoáng, Seaman được xem là một thủ môn thi đấu hiệu quả và nhìn chung là đáng tin cậy, với một phong thái lạnh lùng, sự hiện diện quyết đoán và bình tĩnh trong cầu môn, cũng như khả năng lãnh đạo và tổ chức tuyến sau của đội bóng, tạo nên cảm giác tự tin cho các đồng đội.[26][33][34][35][36][37][38] Ông còn là một chuyên gia cản phá phạt đền.[39] Tuy nhiên, bất chấp khả năng chơi bóng đỉnh cao và tuổi thọ nghề tương đối lâu, ông còn được biết tới với tính cách thiếu nhất quán và đôi khi dễ mắc sai lầm, cụ thể là ở nửa sau sự nghiệp của ông do bị hàng loạt chấn thương hành hạ và bị cả tuổi tác ảnh hưởng, sau cùng dẫn đến thể chất của ông bị suy giảm và kéo theo hàng loạt những màn trình diễn kém thuyết phục;[27][31][35][40][41][42] ông cũng thường xuyên phải vất vả khi đối đầu với những cú sút xa trong suốt sự nghiệp.[43][44]

Với vị thế là một trong những thủ môn người Anh xuất sắc nhất mọi thời đại[44][45][46] và một trong những thủ môn hay nhất lịch sử giải Ngoại hạng Anh nói riêng và bóng đá Anh nói chung,[32][37] Seaman từng về đích thứ 2 trong cuộc bầu chọn cho danh hiệu "Thủ môn xuất sắc nhất thế giới năm 1996" của Liên đoàn thống kê và lịch sử bóng đá quốc tế (IFFHS) chỉ sau Andreas Köpke,[47] đồng hạng 32 với Enrico Albertosi trong cuộc bầu chọn "Thủ môn châu Âu của Thế kỷ" và hạng 4 trong cuộc bầu chọn các thủ môn người Anh hay nhất cũng đều do IFFHS tổ chức.[48] Năm 2013, James McNicholas của Bleacher Report miêu tả Seaman là "thủ môn xuất sắc nhất lịch sử Arsenal".[49] Vốn là một người thuận trái, song Seaman lại ném bóng bằng tay phải và cũng sút bóng bằng chân phải nốt.[11] Bên cạnh tài năng làm thủ môn, Seaman cũng là một nhân vật rất được nhiều người chú ý trên sân cỏ bởi bộ ria mép và kiểu tóc buộc đuôi ngựa thương hiệu mà ông để trong suốt sự nghiệp của mình.[30]

Thống kê sự nghiệp

Câu lạc bộ

Nguồn: David Seaman tại Cơ quan Lưu trữ Bóng đá Quốc gia Anh (ENFA) (cần đăng ký mua)
Số trận ra sân và bàn thắng theo câu lạc bộ, mùa giải và giải đấu
Câu lạc bộMùa giảiVô địch
quốc gia
Cúp FACúp Liên đoàn AnhCúp châu ÂuKhácTổng cộng
Hạng đấuTrậnBàn thắngTrậnBàn thắngTrậnBàn thắngTrậnBàn thắngTrậnBàn thắngTrậnBàn thắng
Leeds United1981–82First Division00000000
Peterborough United1982–83Fourth Division38040403[a]0490
1983–84Fourth Division450104000500
1984–85Fourth Division8020100
Tổng cộng91050100301090
Birmingham City1984–85Second Division33040370
1985–86Hạng nhất4201040470
Tổng cộng7505040840
Queens Park Rangers1986–87First Division4104030480
1987–88First Division320103000360
1988–89First Division35030404[b]0460
1989–90First Division3309030450
Tổng cộng1410170130401750
Arsenal1990–91First Division3808040500
1991–92First Division42010304[c]01[d]0510
1992–93Ngoại hạng Anh3908090560
1993–94Ngoại hạng Anh39030509[e]01[d]0570
1994–95Ngoại hạng Anh31020609[e]02[f]0500
1995–96Ngoại hạng Anh3802070470
1996–97Ngoại hạng Anh22020202[g]0280
1997–98Ngoại hạng Anh31040102[g]0380
1998–99Ngoại hạng Anh32050006[h]01[d]0440
1999–2000Ngoại hạng Anh24020109[i]000360
2000–01Ngoại hạng Anh240500010[h]0390
2001–02Ngoại hạng Anh17010007[h]0250
2002–03Ngoại hạng Anh28050009[h]01[d]0430
Tổng cộng4050480380670605640
Manchester City2003–04Ngoại hạng Anh19010105[g]0260
Tổng cộng sự nghiệp73107606607201309580

Quốc tế

[50][51]

Đội tuyển Anh
NămSố trận đáBàn thắng
198810
198910
199010
199140
199220
199330
199440
199550
1996110
199760
199890
199980
200070
200150
200280
Tổng cộng750

Danh hiệu

Arsenal

Cá nhân

Tham khảo

Liên kết ngoài