Yerevan
Yerevan (tiếng Armenia: Երևան, cách viết cổ điển: Երեւան [jɛɾɛˈvɑn], ⓘ[a]; tiếng Azerbaijan: İrəvan; tiếng Nga: Ереван) là thủ đô và thành phố lớn nhất Armenia, cũng là một trong các thành phố cổ nhất luôn có dân cư ngụ.[11] Nằm dọc theo sông Hrazdan, Yerevan là trung tâm hành chính, văn hóa, và kinh tế của đất nước. Nó đã là thủ đô Armenia từ năm 1918 (thủ đô thứ mười ba trong lịch sử Armenia, và là thủ đô thứ bảy nằm trên bình nguyên Ararat).
Yerevan Երևան | |
---|---|
— Thành phố — | |
Từ phía trên bên trái: cảnh Yerevan với núi Ararat đằng xa • Phức hợp Karen Demirchyan • Đài tưởng niệm Tsitsernakaberd • Nhà thờ chính tòa Thánh Gregory • Đường Tamanyan và nhà hát nhạc kịch Yerevan • Bảo tàng Cafesjian • Quảng trường Cộng hòa về đêm | |
Tên hiệu: "Thành phố Hồng"[1][2][3] (վարդագույն քաղաք[4] vardaguyn k'aghak' ) | |
Vị trí tại Armenia | |
Quốc gia | Armenia |
Thành lập như Erebuni bởi Argishti I | 782 TCN |
Trở thành thành phố dưới triều Aleksandr II của Nga | 1 tháng 10 năm 1879[5] |
Người sáng lập | Argishti I of Urartu |
Đặt tên theo | Erebuni Fortress |
Chính quyền | |
• Kiểu | Thị trưởng-hội đồng |
• Thành phần | Hội đồng Thành phố |
• Thị trưởng | Taron Margaryan (CH) |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 223 km2 (86 mi2) |
Độ cao | 990 m (3,250 ft) |
Độ cao cực đại | 1.390 m (4,560 ft) |
Độ cao cực tiểu | 865 m (2,838 ft) |
Dân số (2011)[6] | |
• Tổng cộng | 1.060.138 |
• Mật độ | 4,800/km2 (12,000/mi2) |
Tên cư dân | Yerevantsi[7][8] |
Múi giờ | AMT (UTC+4) |
0001–0099 | |
Mã điện thoại | +374 10 |
Mã ISO 3166 | AM-ER |
Thành phố kết nghĩa | Carrara, Antananarivo, Cambridge, Marseille, Isfahan, Odessa, Tbilisi, Beirut, Damas, Montréal, Buenos Aires, Bratislava, São Paulo, Chișinău, Rostov trên sông Đông, Los Angeles, Venezia, Moskva, Sankt-Peterburg, Volgograd, Lyon, Kyiv, Athena, Minsk, Podgorica, Sofia, Delhi, Rio de Janeiro, Kaliningrad, Amman, Thượng Hải, Nice, Riga, Novosibirsk, Tallinn, Khanty-Mansiysk, Stavropol, Firenze, New Delhi, Quận V, Budapest, Krasnodar |
Trang web | www |
Lịch sử Yerevan khởi đầu vào thế kỷ 8 TCN, với sự thành lập pháo đài Erebuni năm 782 TCN bởi vua Argishti I của Urartu tại mạn tây của bình nguyên Ararat.[12] Erebuni được "thiết lập làm một trung tâm hành chính và tôn giáo, một thủ phủ hoàng gia hoàn chỉnh."[13] Vào thời Vương quốc Armenia cổ đại, những thủ đô mới được chọn và Yerevan mất đi tầm quan trọng. Dưới sự cai trị của Iran và Nga, đây là trung tâm của hãn quốc Erivan từ năm 1736 đến 1828 và của Guberniya Erivan từ năm 1850 đến 1917. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Yerevan trở thành thủ đô của Đệ nhất Cộng hòa Armenia do hàng nghìn người sống sót trong cuộc diệt chủng người Armenia tại đế quốc Ottoman di cư đến nơi này.[14] Thành phố mở rộng nhanh chóng vào thế kỷ 20 khi Armenia gia nhập Liên Xô. Trong chỉ vài thập niên, Yerevan chuyển từ một tỉnh lỵ nhỏ của đế quốc Nga, thành trung tâm văn hóa, nghệ thuật và công nghiệp của Armenia.
Với sự tăng trưởng của kinh tế đất nước, Yerevan đang trải qua sự biến chuyển lớn do nhiều phần của thành phố được xây dựng lại kể từ đầu thập niên 2000, những nơi như nhà hàng, cửa hiệu, và tiệm cà phê, vốn ít ỏi vào thời Liên Xô, đã mọc lên nhanh chóng. Tính đến năm 2011[cập nhật], dân số Yerevan là 1.060.138 người, tức hơn 35% tổng dân số của toàn Armenia. Theo ước tính chính thức năm 2016, dân số thành phố đạt 1.073.700.[15]
Khí hậu
Yerevan có khí hậu bán khô hạn lạnh (phân loại khí hậu Köppen BSk), bị ảnh hưởng bởi lục địa. Lượng mưa trung bình hàng năm là khoảng 318 mm.
Dữ liệu khí hậu của Yerevan | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 19.5 | 19.6 | 28.0 | 35.0 | 34.2 | 38.6 | 42.4 | 42.0 | 40.0 | 34.1 | 26.0 | 20.0 | 42,6 |
Trung bình cao °C (°F) | 1.2 | 5.5 | 12.6 | 19.4 | 24.1 | 29.9 | 33.7 | 33.4 | 28.7 | 21.0 | 12.4 | 4.6 | 18,9 |
Trung bình ngày, °C (°F) | −3.6 | 0.1 | 6.3 | 12.9 | 17.4 | 22.6 | 26.4 | 26.1 | 21.1 | 13.8 | 6.2 | −0.2 | 12,4 |
Trung bình thấp, °C (°F) | −7.5 | −4.4 | 0.7 | 7.0 | 11.2 | 15.4 | 19.4 | 18.8 | 13.4 | 7.5 | 1.1 | −3.9 | 6,6 |
Thấp kỉ lục, °C (°F) | −27.6 | −26 (−15) | −19.1 | −10.2 | −0.6 | 3.7 | 7.5 | 7.9 | 0.1 | −6.5 | −14.4 | −28.2 | −28,2 |
Giáng thủy mm (inch) | 20 (0.79) | 21 (0.83) | 29 (1.14) | 51 (2.01) | 42 (1.65) | 22 (0.87) | 16 (0.63) | 9 (0.35) | 8 (0.31) | 32 (1.26) | 26 (1.02) | 20 (0.79) | 296 (11,65) |
% Độ ẩm | 81 | 74 | 62 | 59 | 58 | 51 | 47 | 47 | 51 | 64 | 73 | 79 | 62 |
Số ngày mưa TB | 2 | 4 | 8 | 12 | 12 | 8 | 5 | 4 | 4 | 8 | 7 | 4 | 78 |
Số ngày tuyết rơi TB | 7 | 7 | 2 | 0.2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0.1 | 1 | 5 | 22 |
Số giờ nắng trung bình hàng tháng | 93 | 108 | 162 | 177 | 242 | 297 | 343 | 332 | 278 | 212 | 138 | 92 | 2.474 |
Nguồn #1: Pogoda.ru.net[16] | |||||||||||||
Nguồn #2: NOAA[17] |
Tham khảo
Thư mục
- Hakopian, T. Kh. "The History of Yerevan." Old Yerevan (2003): 10–39.
- Lindsay, Ian, and Adam T. Smith. "A History of Archaeology in the Republic of Armenia." Journal of field archaeology 31.2 (2006): 165–184. online[liên kết hỏng]
- Vardanyan, Sergey. "The capitals of Armenia", Apolo 1995, ISBN 5-8079-0778-7
- G. Zakoyan, M. Sivaslian, V. Navasardian. "My Yerevan," Acnalis 2001, ISBN 99930-902-0-4
- Yerevan tại GEOnet Names Server
- Evliya Çelebi (1834). “Description of the Town of Erivan”. Narrative of Travels in Europe, Asia, and Africa, in the Seventeenth Century. 2. Translated by Joseph von Hammer-Purgstall. London: Oriental Translation Fund.