I Kissed a Girl

"I Kissed a Girl" (tạm dịch: "Em đã hôn một cô gái") là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Katy Perry nằm trong album phòng thu thứ hai của cô, One of the Boys (2008). Nó được phát hành vào ngày 28 tháng 4 năm 2008 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi Capitol Records, đồng thời là đĩa đơn đầu tay trong sự nghiệp của nữ ca sĩ. Bài hát được đồng viết lời bởi Perry, Dr. Luke, Max Martin và Cathy Dennis, trong khi phần sản xuất được đảm nhiệm bởi Luke với sự tham gia hỗ trợ sản xuất từ Benny Blanco. Đây là một bản pop rock kết hợp với những yếu tố của new wave, mang nội dung đề cập đến "vẻ đẹp ma thuật của một người phụ nữ" dựa trên mô tả của Perry, và được lấy cảm hứng từ nữ diễn viên Scarlett Johansson cũng như một mối quan hệ bạn bè của cô với một cô gái vào độ tuổi thanh niên. Ban đầu, Capitol Records không muốn phát hành "I Kissed a Girl" làm đĩa đơn bởi chủ đề nhạy cảm và dễ gây tranh cãi của nó, và họ quyết định chỉ quảng bá giới hạn trên một số đài phát thanh để thăm dò phản ứng từ công chúng và thậm chí còn đe dọa rằng Perry sẽ bị sa thải một lần nữa nếu nó thất bại. Tuy nhiên, sau khi gặt hái những phản hồi và yêu cầu phát sóng liên tục từ khán thính giả, bài hát đã được phát hành rộng rãi.[1]

"I Kissed a Girl"
Đĩa đơn của Katy Perry
từ album One of the Boys
Phát hành28 tháng 4 năm 2008 (2008-04-28)
Định dạng
Thể loạiPop rock
Thời lượng2:59
Hãng đĩaCapitol
Sáng tác
Sản xuất
Thứ tự đĩa đơn của Katy Perry
"I Kissed a Girl"
(2008)
"Hot n Cold"
(2008)
Audio sample
Video âm nhạc
"I Kissed a Girl" trên YouTube

Sau khi phát hành, "I Kissed a Girl" nhận được những phản ứng trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu bắt tai và quá trình sản xuất của nó, nhưng cũng vấp phải nhiều sự chỉ trích bởi chủ đề đồng tính luyến ái xoay quanh nội dung lời bài hát, và bị cho là "làm tầm thường hóa tình dục nữ tính" và lợi dụng chủ đề nhạy cảm để thu hút sự chú ý.[2] Tuy nhiên, bài hát đã gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm một đề cử giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 51. "I Kissed a Girl" cũng tiếp nhận những thành công ngoài sức tưởng tượng về mặt thương mại với việc đứng đầu các bảng xếp hạng ở hơn 19 quốc gia, bao gồm nhiều thị trường lớn như Úc, Canada, Đức, Ireland, Ý, New Zealand, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, và lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện. Tại Hoa Kỳ, bài hát đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong bảy tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của Perry và là bài hát quán quân thứ 1,000 của bảng xếp hạng trong kỷ nguyên rock, đồng thời bán được hơn 4.7 triệu bản tại đây. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 10.8 triệu bản trên toàn cầu,[3] trở thành đĩa đơn bán chạy thứ bảy năm 2008[4] và là một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.

Video ca nhạc cho "I Kissed a Girl" được đạo diễn bởi Kinga Burza với bối cảnh ở một bữa tiệc ngủ theo phong cách Moulin Rouge và Burlesque, trong đó bao gồm những cảnh Perry và những người bạn của cô cùng nhau vui vẻ nhảy múa trong bữa tiệc, bên cạnh sự xuất hiện của một số khách mời đặc biệt như nữ diễn viên Shannon Woodward, DJ Skeet Skeet và nữ ca sĩ Kesha. Nó đã nhận được nhiều lượt phát sóng liên tục trên những kênh truyền hình âm nhạc như MTVVH1, cũng như gặt hái năm đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2008 cho Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ, Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất, Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất, Biên tập xuất sắc nhất và Quay phim xuất sắc nhất. Để quảng bá bài hát, Perry đã trình diễn "I Kissed a Girl" trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm MTV Unplugged, Today, giải Grammy lần thứ 51, giải Video âm nhạc của MTV năm 2008 và giải Âm nhạc châu Âu của MTV năm 2008, cũng như trong tất cả những chuyến lưu diễn của cô. Kể từ khi phát hành, bài hát đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ khác nhau, như "Weird Al" Yankovic, Lenny Kravitz, Ellen Degeneres, Cobra Starship và dàn diễn viên của Glee, cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm The Big Bang Theory, Blended, Boy Meets Girl, The HillsPitch Perfect 2.

Danh sách bài hát

Thành phần thực hiện

Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của One of the Boys, Capitol Records.[10]

Thu âm và phối khí
Thành phần
  • Viết lời - Katy Perry, Lukasz Gottwald, Max Martin, Cathy Dennis
  • Sản xuất - Dr. Luke, Benny Blanco (hỗ trợ sản xuất)
  • Giọng nền - Cathy Dennis
  • Phối khí - Serban Ghenea
  • Kỹ sư - Emily Wright, Sam Holland, Nick Banns, Aniela Gottwald, Mike Caffrey, Tina Kennedy
  • Trống và lập trình - Dr. Luke, Benny Blanco
  • Trống trực tiếp - Steven Wolf
  • Thu âm và sản xuất phần trống - Mike Caffrey

Giải thưởng và đề cử

NămGiải thưởngHạng mụcKết quả
2008Giải Video âm nhạc của MTVChỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhấtĐề cử
Quay phim xuất sắc nhấtĐề cử
Biên tập xuất sắc nhấtĐề cử
Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩĐề cử
Nghệ sĩ mới xuất sắc nhấtĐề cử
Giải Sự lựa chọn của Giới trẻLựa chọn Âm nhạc:Bài hát mùa hèĐề cử
Giải Âm nhạc châu Âu của MTVBài hát gây nghiện nhấtĐề cử
Los Premios MTV LatinoaméricaBài hát của nămĐề cử
Giải thưởng QBài hát xuất sắc nhấtĐề cử
The Record of the YearThu âm của nămĐề cử
2009Giải GrammyTrình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhấtĐề cử
Giải thưởng âm nhạc Pop ASCAPBài hát được phát nhiều nhấtĐoạt giải
Giải Sự lựa chọn của Công chúngBài hát Pop được yêu thíchĐoạt giải
Giải Video của MuchMusicUR Fave: Nghệ sĩ quốc tếĐề cử
Giải Sự lựa chọn của Trẻ emBài hát xuất sắc nhấtĐề cử
Giải Video âm nhạc của MTV Nhật BảnVideo Pop xuất sắc nhấtĐoạt giải

Xếp hạng

Xếp hạng mọi thời đại

Bảng xếp hạngVị trí
US Billboard Hot 100[45]499

Xếp hạng cuối năm

Bảng xếp hạng (2008)Vị trí
Australia (ARIA)[46]6
Austria (Ö3 Austria Top 75)[47]4
Belgium (Ultratop 50 Flanders)[48]7
Belgium (Ultratop 40 Wallonia)[49]41
Canada (Canadian Hot 100)[50]5
Europe (European Hot 100 Singles)[51]4
Finland (Suomen virallinen lista)[52]1
France (SNEP)[53]34
Germany (Official German Charts)[54]5
Hungary (Rádiós Top 40)[55]25
Hungary (Dance Top 40)[56]56
Ireland (IRMA)[57]5
Italy (FIMI)[58]5
Netherlands (Dutch Top 40)[59]17
Netherlands (Single Top 100)[60]19
New Zealand (Recorded Music NZ)[61]9
Norway (VG-lista)[62]6
Sweden (Sverigetopplistan)[63]5
Switzerland (Schweizer Hitparade)[64]8
UK Singles (Official Charts Company)[65]4
US Billboard Hot 100[66]14
US Pop Songs (Billboard)[67]16
Worldwide (IPFI)[4]7
Bảng xếp hạng (2009)Vị trí
Europe (European Hot 100 Singles)[68]54
Finland (Suomen virallinen lista)[69]18
Germany (Official German Charts)[70]95
Hungary (Rádiós Top 40)[71]12
Hungary (Dance Top 40)[72]42
Norway (VG-lista)[73]39
Switzerland (Schweizer Hitparade)[74]48
UK Singles (Official Charts Company)[75]176

Xếp hạng thập niên

Bảng xếp hạng (2000-09)Vị trí
Australia (ARIA)[76]22
Austria (Ö3 Austria Top 40)[77]50
Germany (Official German Charts)[78]29
UK Singles (Official Charts Company)[79]59
US Billboard Hot 100[80]66

Thành công trên các bảng xếp hạng

Tiền nhiệm
"No Air" của Jordin SparksChris Brown
Đĩa đơn quán quân Australian Singles Chart
14 tháng 7 năm 2008 - 25 tháng 8 năm 2008
Kế nhiệm
"All Summer Long" của Kid Rock
Tiền nhiệm
Malene của Sys Bjerre
Đĩa đơn quán quân Danish Singles Chart
22 tháng 8 năm 2008 – 3 tháng 10 năm 2008
Kế nhiệm
"Kommer igen" của Nik & Jay
Tiền nhiệm
"All Summer Long" của Kid Rock
Đĩa đơn quán quân Eurochart Hot 100 Singles
23 tháng 8 năm 2008 - 25 tháng 10 năm 2008
Kế nhiệm
"So What" của Pink
Tiền nhiệm
"Viva la Vida" của Coldplay
Đĩa đơn quán quân Billboard Hot 100
5 tháng 7 năm 2008 – 16 tháng 10 năm 2008
Kế nhiệm
"Disturbia" của Rihanna
Tiền nhiệm
"4 Minutes" của Madonna hợp tác với Justin Timberlake
Đĩa đơn quán quân Canadian Hot 100
21 tháng 6 năm 2008 – 16 tháng 8 năm 2008
Kế nhiệm
"Just Dance" của Lady Gaga
Tiền nhiệm
"All Summer Long" của Kid Rock
Đĩa đơn quán quân UK Singles Chart
10 tháng 8 năm 2008 – 14 tháng 9 năm 2008
Kế nhiệm
"Sex on Fire" của Kings of Leon
Tiền nhiệm
"Stop de Tijd" của Marco Borsato
Đĩa đơn quán quân Dutch Top 40
20 tháng 9 năm 2008 – 27 tháng 9 năm 2008
Kế nhiệm
"Viva la Vida" của Coldplay
Tiền nhiệm
"Das hat die Welt noch nicht gesehen" của Söhne Mannheims
"Gib mir Sonne" của Rosenstolz
Đĩa đơn quán quân German Singles Chart
30 tháng 8 năm 2008 – 5 tháng 9 năm 2008 (Lần 1)
19 tháng 9 năm 2008 - 3 tháng 10 năm 2008 (Lần 2)
Kế nhiệm
"Gib mir Sonne" của Rosenstolz
"So What" của Pink
Tiền nhiệm
"All Summer Long" của Kid Rock
Đĩa đơn quán quân Swiss Singles Chart
24 tháng 7 năm 2008 – 5 tháng 10 năm 2008
Kế nhiệm
"So What" của Pink

Chứng nhận

}
Quốc giaChứng nhậnDoanh số
Úc (ARIA)[81]3× Bạch kim210.000^
Áo (IFPI Áo)[82]Bạch kim30.000*
Bỉ (BEA)[83]Vàng15,000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[84]Bạch kim80,000*
Canada (Music Canada)[85]
Nhạc số
7× Bạch kim280.000*
Canada (Music Canada)[86]
Nhạc chuông
6× Bạch kim240.000*
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[87]3× Bạch kim45.000^
Phần Lan (Musiikkituottajat)[88]Bạch kim14,072[88]
Pháp (SNEP)[90]Vàng160,000[89]
Đức (BVMI)[91]3× Vàng750.000
Ý (FIMI)[92]Vàng25.000
New Zealand (RMNZ)[93]Bạch kim15.000*
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[94]Bạch kim25.000^
Thụy Điển (GLF)[95]Bạch kim40,000^
Thụy Sĩ (IFPI)[96]Bạch kim30.000^
Anh Quốc (BPI)[98]Bạch kim706,000[97]
Hoa Kỳ (RIAA)[100]6× Bạch kim4,700,000[99]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

Khu vựcNgàyĐịnh dạngNguồn
Hoa Kỳ28 tháng 4 năm 2008Tải kĩ thuật số[101]
Thế giới29 tháng 4 năm 2008[102][103][104][105][106][107][108]
Hoa Kỳ13 tháng 5 năm 2008Top 40/Mainstream radio[109]
Úc19 tháng 7 năm 2008EP phối lại[110]
New Zealand[111]
Vương quốc Anh29 tháng 7 năm 2008Tải kĩ thuật số[112]
Thụy Sĩ1 tháng 8 năm 2008EP phối lại[113]
Đức1 tháng 8 năm 2008CD[114]
Pháp25 tháng 8 năm 2008CD[115]
Thế giới25 tháng 8 năm 2008EP phối lại[116]
Vương quốc Anh1 tháng 9 năm 2008CD[117]

Xem thêm

Tham khảo

Liên kết ngoài