J1 League

Giải đấu hàng đầu của Liên đoàn bóng đá chuyên nghiệp Nhật Bản

J1 League (J1リーグ Jei Wan Rīgu?) hay đơn giản là J1 là hạng đấu cao nhất của Giải bóng đá chuyên nghiệp Nhật Bản (日本プロサッカーリーグ Nippon Puro Sakkā Rīgu?) và là giải đấu cao nhất trong hệ thống bóng đá Nhật Bản.[1][2][3][4][5][6][7] Đây là một trong những giải đấu thành công nhất trong các giải đấu cấp câu lạc bộ tại châu Á và là giải đấu duy nhất được xếp hạng 'A' bởi AFC. Hiện tại, J1 League là hạng đấu số một trong Hệ thống các giải bóng đá Nhật Bản. Hạng đấu thứ hai là J2 League. Giải hiện được tài trợ bởi Meiji Yasuda Life vì thế giải có tên chính thức là Meiji Yasuda J1 League.

J1 League
Mùa giải hiện tại:
J1 League 2023
Thành lập1993
Quốc giaNhật Bản Nhật Bản
Liên đoànAFC
Số đội20
Cấp độ trong
hệ thống
1
Xuống hạng đếnJ2 League
Cúp trong nướcCúp Hoàng đế
Yamazaki Nabisco Cup
Siêu cúp Nhật Bản
Cúp quốc tếAFC Champions League
Đội vô địch hiện tạiVissel Kobe (lần thứ 1)
(2023)
Vô địch nhiều nhấtKashima Antlers (8 lần)
Thi đấu nhiều nhấtSeigo Narazaki (631)
Vua phá lướiYoshito Ōkubo (179 bàn)
Đối tác truyền hìnhDAZN (tại Nhật Bản)
NHK
YouTube (ngoài Nhật Bản)
Trang webWebsite
Biểu tượng cũ

Lịch sử

Các giai đoạn của J1

Trước khi thành lập giải chuyên nghiệp (1992 trở về trước)

Trước khi J.League ra đời, giải bóng đá cấp câu lạc bộ cao nhất khi đó là Nihon Sakkā Rīgu (日本サッカーリーグ), gồm các CLB nghiệp dư.[8][9] Được tham dự đông đảo trong thời kì phát triển bùng nổ của nước Nhật cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 (khi đội tuyển quốc gia Nhật Bản giành huy chương đồng Olympic tại Thế vận hội năm 1968 ở Mexico), giải này đã đi xuống trong những năm 1980, nói chung là tình hình xấu đi trên toàn thế giới. Người hâm mộ ít ỏi, sân bãi chất lượng thấp và ĐTQG Nhật Bản cũng không ngang tầm với các cường quốc châu Á. Nhằm nâng cao trình độ thi đấu trong nước, cố gắng thu hút nhiều người hâm mộ hơn và tăng cường sức mạnh cho đội tuyển quốc gia, Hiệp hội bóng đá Nhật Bản (JFA) đã quyết định thành lập giải đấu chuyên nghiệp.

Liên đoàn bóng đá chuyên nghiệp, J.League được thành lập vào năm 1992, với tám đội bóng được rút ra từ Giải hạng nhất, một đội từ Giải hạng hai và Shimizu S-Pulse mới thành lập. Đồng thời, Nihon Sakkā Rīgu đổi tên và trở thành Japan Futtobōru Līgu trước đây, một giải đấu bán chuyên nghiệp. Mặc dù J.League mới chính thức ra mắt cho đến năm 1993, thì cúp Yamazaki Nabisco đã được tổ chức giữa mười CLB vào năm 1992, để chuẩn bị cho mùa giải khai mạc.

Mùa giải mở đầu và quảng bá J.League (1993–1995)

J.League chính thức khởi tranh mùa giải đầu tiên với 10 câu lạc bộ vào ngày 15 tháng 5 năm 1993 khi Verdy Kawasaki (hiện tại là Tokyo Verdy) tiếp đón Yokohama Marinos (hiện tại là Yokohama F. Marinos) trên Sân vận động Quốc gia Kasumigaoka.

Giai đoạn sau (1996–1999)

Cho dù giải đấu gặt hái nhiều thành công trong ba năm đầu tiên, tới đầu năm 1996, số lượng người tham dự giải đấu sụt giảm nhanh chóng. Năm 1997, số người tham dự trung bình là 10.131, so với hơn 19.000 người vào năm 1994. Đáng chú ý, huấn luyện viên Arsène Wenger đã tiếp quản Nagoya Grampus Eight trong thời gian này.

Thay đổi cơ sở vật chất và thể thức thi đấu (1999–2004)

Ban lãnh đạo của giải đấu cuối cùng cũng nhận ra rằng họ đang đi sai hướng. Để giải quyết vấn đề, ban lãnh đạo đã đưa ra hai giải pháp.

Đầu tiên, họ công bố Tầm nhìn Trăm năm của J.League, trong đó đặt mục tiêu thành lập 100 câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp ở Nhật Bản đến năm 2092, cũng là mùa giải thứ một trăm. Liên đoàn cũng khuyến khích các CLB quảng bá các hoạt động thể thao và sức khỏe, có thể liên quan đến bóng đá hoặc hoặc thậm chí không liên quan đến bóng đá, giành lấy sự tài trợ địa phương và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với quê hương của họ ở cấp cơ sở. Liên đoàn tin rằng điều này sẽ cho phép các câu lạc bộ gắn kết với thành phố và thị trấn tương ứng của họ, nhận được hỗ trợ từ chính quyền địa phương, các công ty và quần chúng nhân dân. Nói cách khác, các CLB sẽ có thể dựa vào người dân địa phương, thay vì chỉ là các nhà tài trợ lớn của quốc gia.

Thứ hai, cơ sở hạ tầng của giải đấu đã thay đổi rất nhiều vào năm 1999. Liên đoàn mua lại 9 câu lạc bộ từ Japan Futtobōru Līgu bán chuyên, cùng một CLB từ J.League, tạo ra một hệ thống hai giải đấu. Ttrở thành J.League Division 1 (J1) với 16 đội, J.League Division 2 (J2) ra mắt với mười đội vào năm 1999. Giải bóng đá hạng nhì Nhật Bản trước đây thì trở thành giải hạng ba.

Ngoài ra, cho đến năm 2004 (ngoại trừ mùa giải 1996), mùa giải J1 được chia thành hai phần. Vào cuối mỗi mùa giải, đương kim vô địch của mỗi phần sẽ đấu trận hai lượt đi-về nhằm xác định đội chiến thắng chung cuộc và đội á quân. Júbilo Iwata năm 2002 và Yokohama F. Marinos năm 2003, đã giành chiến thắng ở cả hai lượt của mùa giải tương ứng, do đó các đội này không cần phải tham dự thêm trận playoff. Đây cũng là một phần lí do mà sau này giải đấu bãi bỏ hệ thống chia mùa, bắt đầu từ năm 2005.

Thể thức châu Âu & AFC Champions League (2005–2008)

Kể từ mùa giải 2005, J.League Division 1 bao gồm 18 câu lạc bộ (từ 16 CLB vào năm 2004) và thể thức của mùa giải trở nên giống với bóng đá châu Âu. Số câu lạc bộ xuống hạng cũng tăng từ 2 lên 2,5, với đội đứng thứ 3 đến đứng bét sẽ tham dự Trận tranh Lên/Xuống hạng với đội hạng ba J2. Kể từ đó, ngoài một vài điều chỉnh nhỏ, giải đấu vẫn ổn định.

Trong những năm đầu, các đội bóng Nhật Bản không coi trọng AFC Champions League, một phần là do khoảng cách di chuyển và các đội bóng liên quan. Tuy nhiên, tại mùa giải Champions League 2008, ba đội bóng của Nhật Bản đã lọt vào tứ kết.[10]

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với việc bao gồm A-League ở Đông Á, sự ra mắt của Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ, và thị trường bóng đá tăng cao ở lục địa châu Á, cả giải đấu và các đội bóng đã chú ý nhiều hơn đến các giải đấu tại châu lục này. Ví dụ, CLB Kawasaki Frontale đã xây dựng được một lượng người hâm mộ đáng kể tại Hồng Kông, nhờ việc họ tham dự Champions League châu Á mùa giải 2007.[11] Những nỗ lực không ngừng đã dẫn đến thành công của Urawa Red Diamonds năm 2007, và Gamba Osaka năm 2008. Nhờ công tác quản lí giải đấu đầy xuất sắc và khả năng cạnh tranh tại mọi đấu trường Á châu, AFC đã trao cho J.League thứ hạng cao nhất, và có tổng cộng tới bốn suất tham dự bắt đầu từ mùa giải 2009. Liên đoàn coi đây là cơ hội để bán bản quyền truyền hình cho nước ngoài, đặc biệt là khu vực toàn châu Á.

Cũng bắt đầu từ mùa giải 2008, đội đoạt Cúp Thiên Hoàng sẽ được tham dự Champions League mùa giải kế tiếp, thay vì phải chờ cả năm (tức là đương kim vô địch Cúp Hoàng Đế 2005, là Tokyo Verdy, tham dự ngay mùa giải ACL 2007, thay vì mùa giải 2006). Để khắc phục vấn đề tụt hậu kéo dài một năm này, nhà vô địch Cúp Thiên Hoàng 2007, CLB Kashima Antlers đã được miễn thi đấu. Tuy nhiên, chính Kashima Antlers đã kết thúc mùa giải ACL 2009 bằng chức vô địch J.League mùa giải 2008.

Giai đoạn hiện đại (2009–2016)

Ba sự thay đổi lớn được thấy từ mùa giải 2009. Đầu tiên, bắt đầu từ mùa giải này, có tới bốn suất CLB được tham dự AFC Champions League. Thứ hai, số suất xuống hạng tăng lên ba. Cuối cùng, vị trí cầu thủ AFC cũng được triển khai bắt đầu từ mùa giải này. Mỗi đội bóng sẽ được phép sở hữu tổng cộng bốn cầu thủ ngoại quốc; tuy nhiên, chỉ một vị trí được dành cho cầu thủ đến từ nước AFC mà không phải Nhật Bản. Ngoài ra, theo yêu cầu của việc trở thành thành viên Liên đoàn bóng đá châu Á, vào năm 2012, Giấy phép Câu lạc bộ J.League đã trở thành tiêu chí xác định liệu một CLB có được phép lên hạng cao hơn trong các giải đấu cấp độ chuyên nghiệp hay không. Ngoài ra, không có thay đổi nào khác xảy ra với J.League Division 1 khi mà số lượng CLB vẫn giữ nguyên ở mức 18 đội.

Năm 2015, J.League Division 1 chính thức đổi tên thành J1 League. Ngoài ra, thể thức giải đấu thay đổi thành hệ thống ba giai đoạn. Mùa giải được chia thành giai đoạn đầu tiên và thứ hai, sau đó là giai đoạn vô địch thứ ba và cuối cùng. Giai đoạn thứ ba bao gồm ba đến năm đội. Đội tích lũy được điểm số cao nhất mỗi giai đoạn và ba điểm tích lũy cao nhất cho toàn mùa giải thì sẽ đủ điều kiện. Nếu cả hai đội vô địch giai đoạn này đều lọt vào danh sách ba đội dẫn đầu của mùa giải, thì chỉ có ba đội đủ điều kiện tham dự vòng đấu vô địch. Các đội này sau đó sẽ tham dự vòng đấu loại trực tiếp vô địch, nhằm quyết định đội bóng sẽ giành chức vô địch.

Hiện nay (2017–)

Mặc dù định dạng đa giai đoạn mới ban đầu được báo cáo là đã bị khóa lại tới năm mùa, do phản ứng tiêu cực từ bộ phận người hâm mộ khó tính và không thu hút được những người hâm mộ bình thường, sau năm 2016, định dạng này bị loại bỏ, nhằm quay trở lại hệ thống đơn giai đoạn. Từ năm 2017, đội nào tích lũy được nhiều điểm nhất sẽ lập tức được vinh danh là nhà vô địch, sẽ không có giai đoạn vô địch nào diễn ra vào cuối mùa giải và từ năm 2018, hai CLB đứng cuối cùng sẽ xuống hạng, CLB đứng thứ 16 thì tham gia trận playoff với đội J2, toàn thắng loạt trận playoff thì thăng hạng. Nếu đội nào thắng trong trận playoff J2, thì được thăng hạng, với đội J1 vừa bị xuống hạng, nếu không đội J1 có thể giữ được vị trí của mình trong J1 League với việc thăng hạng thất bại của đội J2.

Tháng 11 năm 2017, Urawa Red Diamonds đã chơi trận chung kết AFC Champions League với Al Hilal. Sau trận hòa ở lượt đi, Urawa Red Diamonds thắng trận lượt về với tỷ số 1-0 và lên ngôi vô địch châu Á. Trong 10–15 năm qua, các câu lạc bộ bóng đá Nhật Bản đã vươn lên không chỉ ở châu lục mà còn trên trường quốc tế. Các đội Gamba Osaka và Urawa Red Diamonds đều đã lên ngôi vô địch châu Á và tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ, luôn đặt mục tiêu ít nhất là vào bán kết. Kashima Antlers đã lọt vào chung kết của giải này năm 2016, cuối cùng thua Real Madrid.

J.League sẽ chuyển sang lịch mùa giải châu Âu kể từ mùa giải 2026–27.

Các mốc thời gian

NămSự kiện quan trọng# J# ACLXuống hạng
1989
  • JFA thành lập một ủy ban đánh giá giải chuyên nghiệp.
1990
  • Ủy ban đánh giá tiêu chuẩn cho các câu lạc bộ chuyên nghiệp
  • 15 tới 20 câu lạc bộ từ Japan Soccer League đăng ký là thành viên của giải đấu chuyên nghiệp
1992
1993
  • J.League chính thức khởi tranh mùa giải đầu tiên
10
199412
1995
  • Hai câu lạc bộ tiếp theo lên hạng từ Giải bóng đá Nhật Bản: Cerezo OsakaKashiwa Reysol
  • Hệ thống tính điểm được giới thiệu lần đầu tiên: một câu lạc bộ nhận 3 điểm cho một trận thắng, 1 điểm cho một trận thua penalty, và 0 điểm cho một trận thua thông thường hoặc sau hiệp phụ.
14
1996
  • Hai câu lạc bộ tiếp theo lên hạng từ Giải bóng đá Nhật Bản: Kyoto Purple SangaAvispa Fukuoka
  • Giải đấu áp dụng thể thức một lượt
  • Lượng khán giả trung bình J.League thấp kỷ lục 10,131
16
1997
  • Câu lạc bộ tiếp theo lên hạng từ Giải bóng đá Nhật Bản: Vissel Kobe
  • Giải đấu trở lại thể thức hai giai đoạn
  • Hệ thống tính điểm thay đổi: một câu lạc bộ nhận 3 điểm cho một trận thắng thông thường, 2 điểm khi thắng sau hiệp phụ, 1 điểm sau khi thắng bằng penalty, và 0 điểm cho một trận thua.
17
1998
  • Câu lạc bộ tiếp theo lên hạng từ Giải bóng đá Nhật Bản: Consadole Sapporo
  • Yokohama Flügels thông báo rằng họ sẽ hợp nhất với đội cùng thành phố Yokohama Marinos vào mùa giải 1999
  • Công bố Tầm nhìn Trăm năm J.League
  • Thông báo hợp nhất hai giải đấu bắt đầu từ mùa 1999
  • Tổ chức Giải Lên hạng J.League để xác định đội lên / xuống hạng. Kết quả, Consadole Sapporo trở thành đội đầu tiên xuống hạng.
18
1999
  • Yokohama Marinos hợp nhất cùng Yokohama Flügels và trở thành Yokohama F. Marinos
  • Sút luân lưu được loại bỏ ở cả hai hạng đấu; tuy nhiên, bàn thắng vàng trong hiệp phụ vẫn còn
  • The points system changes: một câu lạc bộ nhận 3 điểm cho một trận thắng thông thường, 2 điểm khi thắng sau hiệp phụ, và 1 điểm cho một trận hòa
  • Giải bóng đá Nhật Bản (cũ) được tổ chức lại, trở thành giải thứ 3 Giải bóng đá Nhật Bản.
Ghi chú: Để phân biệt giữa giải cũ và JFL hiện tại, giải JFL is được gọi là Giải bóng đá Nihon ở Nhật Bản.
162
2000162
2001162
20021622
2003
  • Hiệp phụ được loại bỏ tại giải Hạng 1 và hệ thống tính điểm 3–1–0 được sử dụng
162
20041620.5
2005
  • J.League Hạng 1 mở rộng lên 18 đội
  • J.League Hạng 1 thi đấu mùa giải đơn
1822.5
20061822.5
2007
  • Đội vô địch J.League tham dự FIFA Club World Cup với tư cách chủ nhà trong hai mùa giải kế tiếp
Ghi chú: Nếu một câu lạc bộ Nhật Bản vô địch AFC Champions League, chủ nhà sẽ mất quyền này.
  • Urawa Red Diamonds trở thành câu lạc bộ đầu tiên vô địch AFC Champions League kể từ khi khai sinh giải đấu được đổi tên năm 2002.
1822.5
2008
  • Gamba Osaka vô địch AFC Champions League 2008, chức vô địch thứ hai liên tiếp của một câu lạc bộ Nhật Bản.
182 + 12.5
2009
  • Bốn câu lạc bộ tham dự AFC Champion League.
  • Bổ sung suất ngoại binh thứ 4, là cầu thủ AFC
  • Trận tranh Lên/Xuống hạng J. League được loại bỏ và câu lạc bộ xếp thứ 16 xuống hạng luôn.
1843
20101843
2011
20121843
20131843
20141843
20151843
2016
  • Đương kim vô địch J.League sẽ đủ điều kiện tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ với tư cách là chủ nhà.
  • Kashima Antlers lọt vào Chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2016, trở thành đội bóng châu Á đầu tiên và duy nhất của Nhật Bản lọt vào Chung kết, kết thúc với huy chương bạc.
1843
2017
  • J.League khôi phục thể thức đơn mùa giải chỉ sau hai mùa giải.
  • Urawa Red Diamonds vô địch AFC Champions League 2017 và trở thành đội bóng Nhật Bản đầu tiên vô địch giải đấu nàyt tới hai lần.
1843
2018
  • J.League triển khai trận playoff lên-xuống hạng giữa CLB thứ 16 của J1 và đội thắng trong trận playoff của J2.
  • Kashima Antlers vô địch AFC Champions League 2018, trở thành đội bóng thứ ba duy nhất của Nhật Bản vô địch giải đấu này. Kashima tiếp tục đứng thứ 4 tại Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2018, là thành tích tốt nhất của một đội bóng Nhật Bản tại Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ được tổ chức ở nước ngoài, bên ngoài nước Nhật.
1842.5
2019
  • J.League thực hiện một quy tắc mới dành cho người ngoại quốc. Các CLB J1, J2 và J3 có thể chiêu mộ bao nhiêu cầu thủ nước ngoài tuỳ thích, nhưng chỉ có 5 (J1) hoặc 4 (J2 và J3) cầu thủ được phép có mặt trong đội hình thi đấu chính thức. Gỡ bỏ "Suất cho người châu Á". Các cầu thủ đến từ một số quốc gia đối tác của J.League như Thái Lan, Việt Nam, v.v. thì không tính là ngoại quốc.
1842.5
20201830
2021
  • Mở rộng giải đấu lên 20 câu lạc bộ.
2034
2022
  • Giải đấu thu hẹp trở lại 18 đội bóng.
1832.5
2023
  • Từ mùa giải 2024 trở đi, J1 League, J2 League và J3 League sẽ đều có 20 câu lạc bộ. Do vậy, hệ thống lên-xuống hạng ở mùa giải 2023 được điều chỉnh sao cho phù hợp.
1831
2024
  • J1 League chính thức mở rộng giải đấu lên 20 câu lạc bộ từ mùa giải 2024. Từ mùa giải này, hệ thống playoff lên-xuống hạng giữa J1 và J2 chính thức bị hủy bỏ, thay vào đó 3 đội xếp cuối J1 xuống hạng ngay lập tức.
20?3

Mùa giải

Thể thức

Hai mươi đội bóng sẽ thi đấu vòng tròn hai lượt (nhà và khách), tổng cộng là 38 trận mỗi đội. Mỗi câu lạc bộ sẽ nhận 3 điểm cho một trận thắng, 1 điểm cho một trận hòa và 0 điểm khi thua.. Thứ hạng sẽ xếp theo điểm, nếu bằng điểm sẽ xét theo thứ tự sau:

  • Hiệu số bàn thắng
  • Số bàn thắng
  • Thành tích đối đầu
  • Điểm kỉ luật

Bốc thăm sẽ được định đoạt, nếu cần thiết. Tuy nhiên, nếu hai đội cùng xếp thứ nhất, thì cả hai đội sẽ đồng vô địch. Ba đội dẫn đầu sẽ tham dự AFC Champions League mùa tiếp theo, trong khi đó ba đội cuối bảng sẽ xuống chơi tại J2.

Tiền thưởng (2020)
  • Vô địch: 300.000.000 Yên
  • Á quân: 120.000.000 Yên
  • Hạng ba: 60.000.000 Yên
  • Hạng tư: 60.000.000 Yên
  • Hạng năm: 40.000.000 Yên
  • Hạng sáu: 20.000.000 Yên
  • Hạng bảy: 10.000.000 Yên

Quỹ J League phân phối cho 4 CLB hàng đầu (từ 2017)

  • Vô địch: 1.550.000.000 yên
  • Á quân: 700.000.000 yên
  • Hạng ba: 350.000.000 yên
  • Hạng tư: 180.000.000 yên

[12]

Các câu lạc bộ tham dự

Câu lạc bộNăm
gia nhập
Số mùa
tại J1
Trụ sởMùa đầu tiên tại
giải cao nhất
Số mùa tại
giải cao nhất
Giai đoạn hiện tại ở
giải cao nhất
Lần gần nhất Vô địch
Albirex Niigata1999 (J2)12Niigata & Seiro, Niigata2004112004—
Kashima Antlers199323Tây Nam của Ibaraki1985261993—2009
Shonan Bellmare19949Nam và Trung Kanagawa1972272015—1981
Yokohama F. Marinos199323Yokohama & Yokosuka, Kanagawa1979351982—2004
Kawasaki Frontale1999 (J2)12Kawasaki, Kanagawa1977142005—
Gamba Osaka199322Suita, Osaka1986/87272014—2014
Nagoya Grampus199323Nagoya, Aichi1973311990/91—2010
Montedio Yamagata1999 (J2)4Toàn Yamagata200942015—
Urawa Red Diamonds199322Saitama, Saitama1965482001—2006
Kashiwa Reysol199519Kashiwa, Chiba1965432011—2011
Sagan Tosu1999 (J2)4Tosu, Saga201242012—
Sanfrecce Hiroshima199321Hiroshima, Hiroshima1965432009—2013
Shimizu S-Pulse199323Shizuoka, Shizuoka1993231993—
F.C. Tokyo1999 (J2)21Tokyo2000212012—
Vegalta Sendai1999 (J2)8Sendai, Miyagi200282010—
Ventforet Kofu1999 (J2)6Toàn Yamanashi200662013—
Vissel Kobe199717Kobe, Hyōgo1997172014—
Matsumoto Yamaga2012 (J2)1Trung tâm Nagano201512015—

Nguồn các đội tham dự:[13]

  • Nền hồng chỉ các câu lạc bộ gần nhất lên hạng từ J. League Hạng 2.
  • "Năm gia nhập" là năm câu lạc bộ gia nhập J. League.
  • "Mùa giải đầu tiên tại giải cao nhất," "Số mùa tại giải cao nhất," "Giai đoạn hiện tại ở giải cao nhất," và "Lần gần nhất giành chức vô địch" bao gồm cả Japan Soccer League Hạng Nhất.

Các sân vận động tại giải Hạng nhất (2014)

Các sân sử dụng tại J. League:

Albirex NiigataKashima AntlersOmiya ArdijaCerezo OsakaGamba OsakaYokohama F. Marinos
Sân vận động Denka Big SwanSân vận động bóng đá KashimaSân vận động NACK5 OmiyaSân vận động Yanmar NagaiSân vận động Kỷ niệm Expo '70Sân vận động Nissan
Sức chứa: 42,300Sức chứa: 40,728Sức chứa: 15,300Sức chứa: 47,816Sức chứa: 21,000Sức chứa: 72,370
Kawasaki FrontaleVissel KobeNagoya GrampusTokushima VortisUrawa Red DiamondsKashiwa Reysol
Sân vận động Kawasaki TodorokiSân vận động Noevir KobeSân vận động ToyotaSân vận động PocarisweatSân vận động Saitama 2002Sân vận động Hitachi Kashiwa
Sức chứa: 26.000Sức chứa: 30.132Sức chứa: 45.000Sức chứa: 20,441Sức chứa: 63,700Sức chứa: 15,900
Sagan TosuSanfrecce HiroshimaShimizu S-PulseF.C. TokyoVegalta SendaiVentforet Kofu
Sân vận động Tiện nghi nhấtSân vận động EDION HiroshimaSân vận động IAI NihondairaSân vận động AjinomotoSân vận động SendaiSân vận động Ngân hàng Yamanashi Chuo
Sức chứa: 24,490Sức chứa: 50,000Sức chứa: 20,339Sức chứa: 50,100Sức chứa: 19,694Sức chứa: 17,000

Câu lạc bộ cũ

Câu lạc bộNăm
gia nhập
Số mùa
tại J1
Trụ sởMùa đầu tiên tại
giải cao nhất
Số mùa tại
giải cao nhất
Giai đoạn hiện tại ở
giải cao nhất
Lần gần nhất
Vô địch
Giải đấu
hiện tại
Omiya Ardija1999 (J2)10Saitama, Saitama2005102005–2014J2
Avispa Fukuoka19968Fukuoka, Fukuoka199682011J2
Cerezo Osaka199516Osaka (thành phố), Osaka1965422010–20141980J2
Consadole Sapporo19985Sapporo, Hokkaidō1989/9082012J2
Yokohama Flügels19936Yokohama, Kanagawa1985111988/89–1998Giải thể
JEF United Chiba199317Chiba & Ichihara, Chiba1965441965–20091985/86J2
Júbilo Iwata199420Iwata, Shizuoka1980291994–20132002J2
Kyoto Sanga199611Tây Nam Kyoto1996112008–2010J2
Oita Trinita1999 (J2)8Toàn Oita200382013J2
Tokyo Verdy199314Tokyo19782820081994J2
Tokushima Vortis2005 (J2)1Toàn Tokushima201412014J2
Yokohama FC2001 (J2)1Yokohama, Kanagawa200712007J2
  • Nền xám chỉ các câu lạc bộ gần nhất xuống J. League Hạng 2.
  • "Năm gia nhập" là năm câu lạc bộ gia nhập J. League.
  • "Mùa giải đầu tiên tại giải cao nhất," "Số mùa tại giải cao nhất," "Giai đoạn hiện tại ở giải cao nhất," và "Lần gần nhất giành chức vô địch" bao gồm cả Japan Soccer League Hạng Nhất.

Thống kê

Lịch sử các giải vô địch

Kỷ nguyên chia mùa (1993–2004)Đậm chỉ nhà vô địch; † Mùa giải đơn; ‡ Câu lạc bộ vô địch cả hai giai đoạn

NămGiai đoạn 1Giai đoạn 2
1993Kashima AntlersVerdy Kawasaki
1994Sanfrecce HiroshimaVerdy Kawasaki
1995Yokohama MarinosVerdy Kawasaki
1996 Kashima Antlers
1997Kashima AntlersJúbilo Iwata
1998Júbilo IwataKashima Antlers
1999Júbilo IwataShimizu S-Pulse
2000Yokohama F. MarinosKashima Antlers
2001Júbilo IwataKashima Antlers
2002 Júbilo Iwata
2003 Yokohama F. Marinos
2004Yokohama F. MarinosUrawa Red Diamonds

Kỷ nguyên một mùa (2005–2014)

NămVô địchÁ quânHạng ba
2005Gamba OsakaUrawa Red DiamondsKashima Antlers
2006Urawa Red DiamondsKawasaki FrontaleGamba Osaka
2007Kashima AntlersUrawa Red DiamondsGamba Osaka
2008Kashima AntlersKawasaki FrontaleNagoya Grampus
2009Kashima AntlersKawasaki FrontaleGamba Osaka
2010Nagoya GrampusGamba OsakaCerezo Osaka
2011Kashiwa ReysolNagoya GrampusGamba Osaka
2012Sanfrecce HiroshimaVegalta SendaiUrawa Red Diamonds
2013Sanfrecce HiroshimaYokohama F. MarinosKawasaki Frontale
2014Gamba OsakaUrawa Red DiamondsKashima Antlers
2015
Sanfrecce HiroshimaGamba Osaka
2016
Kashima AntlersUrawa Red Diamonds
2017
Kawasaki FrontaleKashima Antlers
2018
Kawasaki FrontaleSanfrecce Hiroshima
2019
Yokohama F. MarinosFC Tokyo
2020
Kawasaki FrontaleGamba Osaka
2021
Kawasaki FrontaleYokohama F. Marinos

Câu lạc bộ thành công nhất

Câu lạc bộ in đậm đang thi đấu tại mùa 2022.

Câu lạc bộVô địchÁ quânNăm vô địchNăm á quân
Kashima Antlers
8
3
1996, 1998, 2000, 2001, 2007, 2008, 2009, 20161993, 1997, 2017
Yokohama F. Marinos
4
4
1995, 2003, 2004, 20192000, 2002, 2013, 2021
Kawasaki Frontale
4
3
2017, 2018, 2020, 20212006, 2008, 2009
Júbilo Iwata
3
3
1997, 1999, 20021998, 2001, 2003
Sanfrecce Hiroshima
3
2
2012, 2013, 20151994, 2018
Gamba Osaka
2
3
2005, 20142010, 2015, 2020
Tokyo Verdy
2
1
1993, 19941995
Urawa Red Diamonds
1
5
20062004, 2005, 2007, 2014, 2016
Nagoya Grampus
1
2
20101996, 2011
Kashiwa Reysol
1
0
20112006, 2008, 2009
Shimizu S-Pulse
0
1
1999
Vegalta Sendai
0
1
2012
FC Tokyo
0
1
2019

Xuống hạng

NămThứ 15Thứ 16Thứ 17Thứ 18
1998JEF United IchiharaConsadole SapporoVissel KobeAvispa Fukuoka
1999Urawa Red DiamondsBellmare HiratsukaChỉ có 16 câu lạc bộ
2000Kyoto Purple SangaKawasaki Frontale
2001Avispa FukuokaCerezo Osaka
2002Sanfrecce HiroshimaConsadole Sapporo
2003Vegalta SendaiKyoto Purple Sanga
2004Cerezo OsakaKashiwa Reysol
2005Shimizu S-PulseKashiwa Reysol Tokyo Verdy 1969Vissel Kobe
2006Ventforet KofuAvispa Fukuoka Cerezo OsakaKyoto Purple Sanga
2007Omiya ArdijaSanfrecce Hiroshima Ventforet KofuYokohama FC
2008JEF United ChibaJúbilo Iwata Tokyo VerdyConsadole Sapporo
2009Montedio YamagataKashiwa ReysolOita TrinitaJEF United Chiba
2010Vissel KobeF.C. TokyoKyoto SangaShonan Bellmare
2011Urawa Red DiamondsVentforet KofuAvispa FukuokaMontedio Yamagata
2012Albirex NiigataVissel KobeGamba OsakaConsadole Sapporo
2013Ventforet KofuShonan BellmareJúbilo IwataOita Trinita
2014Shimizu S-PulseOmiya ArdijaCerezo OsakaTokushima Vortis

* In đậm là các câu lạc bộ xuống hạng;
†Thắng Trận tranh Lên/Xuống hạng J. League;
‡ Thua Trận tranh Lên/Xuống hạng J. League và xuống hạng

Các giải khác

Giải quốc nội
Giải quốc tế
Giải không còn tồn tại

Truyền thông

Nhật Bản

Tất cả các trận đấu của J1 đều được truyền trực tiếp qua DAZN cho đến mùa giải 2028, với một số trận đấu được chọn cũng được truyền hình trực tiếp cùng với các điểm nổi bật của các trận đấu khác cũng có trên đài truyền hình NHK.[14]

Bên ngoài Nhật Bản

Giải đấu hiện được phủ sóng toàn cầu (trừ Trung Quốc đại lục) bởi NHK World Premium (chỉ có tiếng Nhật)[15] và Dentsu.[16][17]

2020–2022

Quốc gia/Vùng lãnh thổĐài truyền hình
 ÚcOptus Sport[18]
 ÁoSportdigitalDACH
 Đức
 Thụy Sĩ
 BruneiAstro SuperSport, SPOTV
 Malaysia
 Trung QuốcK-Ball CHN

FTA và trả phí (truyền hình khu vực)

  • GZTV
  • TJTV

IPTV

  • Wasu

Truyền trực tiếp

Vùng BalkanSport Klub
 Hồng Kôngi-Cable
 IndonesiaMNC Sports, SPOTV
 IrelandFreeSports[19]
 Anh
 IsraelSport 5
 Ma CaoTDM
 MENADubai Sports beIn sport Alkass
 Đài LoanELTA
 Thái LanSiamsports (Truyền trực tiếp một số trận), PPTV (Chỉ một số trận)
 Ấn ĐộFanCode[20]
Việt NamDatVietVAC

^CHN – với tư cách là nhà phân phối chính, bao gồm các trận đấu J2.

^DACH – bắt đầu từ MW2 vào mùa giải 2020.

Xem thêm

Tham khảo

Liên kết ngoài