Kandahar

Kandahār, hay Qandahār, (tiếng Pashto: کندهار; tiếng Ba Tư: قندهار) là thành phố lớn thứ hai của Afghanistan, với dân số 450.300 người (theo con số ước tính năm 2006). Đây là thủ phủ của tỉnh Kandahar nằm bên sông Arghandab, có độ cao khoảng 3.297 foot (1.005 m) trên mực nước biển. Thành phố này được nối bằng các xa lộ với Herat về phía tây, Ghazni và Kabul về phía đông, Tarin Kowt về phía bắc, và QuettaPakistan về phía nam.

Kandahar
کندهار
Khung cảnh của Thung lũng Arghandab
Khung cảnh của Thung lũng Arghandab
Khung cảnh của Thung lũng Arghandab

Kandahar

TỉnhKandahar
Tọa độ31°37′01″B 65°43′01″Đ / 31,617°B 65,717°Đ / 31.617; 65.717
Dân số  (2006)
450.300
Central Statistics Office of Afghanistan
Diện tích
 - Độ cao

1.000 m (3.281 ft)
Múi giờUTC+4:30 Kabul

Kandahar là một trung tâm lớn về mua bán cừu, lông cừu, bông vải, lụa, nỉ, ngũ cốc, trái cây tươi và trái cây khô và thuốc lá. Khu vực này sản xuất các loại trái cây ngon, đặc biệt là quả lựunho. Thành phố có những nhà máy đóng hộp, sấy khô trái cây. Kandahar có một sân bay quốc tế. Cùng với Peshawar ở Pakistan, Kandahar là thành phố chính của người Pashtun.

Alexandros Đại Đế đã thành lập Kandahar vào thế kỷ thứ 4 và đặt tên nó là Alexandria, một tên phổ biến đặt cho các thành phố mà ông đã phát hiện ra trong các chuyến chinh phục của mình[1]. Nhiều đế chế đã đánh nhau để tranh giành thành phố này do vị trí chiến lược của nó dọc theo các con đường giao thương của NamTrung Á. Năm 1748, Ahmad Shah Durrani, người sáng lập ra Đế quốc Durrani (Đế quốc Afghan), đã chọn Kandahar làm thủ đô của Afghanistan[2][3].

Khí hậu

Dữ liệu khí hậu của Kandahar (1964–1983)
Tháng123456789101112Năm
Cao kỉ lục °C (°F)25.026.036.537.143.045.046.544.541.037.531.526.046,5
Trung bình cao °C (°F)12.214.821.628.134.139.140.238.234.027.521.015.427,2
Trung bình ngày, °C (°F)5.17.813.920.225.430.031.929.423.517.511.07.318,58
Trung bình thấp, °C (°F)0.02.47.112.315.819.522.520.013.58.53.31.010,5
Thấp kỉ lục, °C (°F)−12.1−10−4.82.02.48.513.59.05.2−2.2−9.3−11.4−12,1
Giáng thủy mm (inch)54.0
(2.126)
42.0
(1.654)
41.1
(1.618)
18.7
(0.736)
2.2
(0.087)
0
(0)
2.3
(0.091)
1.0
(0.039)
0
(0)
2.3
(0.091)
7.0
(0.276)
20.0
(0.787)
190,6
(7,504)
Độ ẩm58595041302325252429405238
Số ngày giáng thủy TB66641000012329
Số giờ nắng trung bình hàng tháng198.4183.6235.6255.0347.2369.0341.0337.9324.0306.9264.0217.03.379,6
Nguồn: NOAA (1964–1983)[4]

Chú thích

Tham khảo

  • Dupree, Nancy Hatch (1977) [1st Edition: 1970]. An Historical Guide to Afghanistan (ấn bản 2). Afghan Tourist Organization.
  • Hill, John E. 2004. The Peoples of the West from the Weilue 魏略 by Yu Huan 魚豢: A Third Century Chinese Account Composed between 239 and 265 CE. Draft annotated English translation.
  • Hill, John E. (2009) Through the Jade Gate to Rome: A Study of the Silk Routes during the Later Han dynasty, 1st to 2nd centuries CE. BookSurge, Charleston, South Carolina. ISBN 978-1-4392-2134-1.
  • Frye, Richard N. (1963). The Heritage of Persia. World Publishing company, Cleveland, Ohio. Mentor Book edition, 1966.
  • Toynbee, Arnold J. (1961). Between Oxus and Jumna. London. Oxford University Press.
  • Willem Vogelsang (1985). "Early historical Arachosia in South-east Afghanistan; Meeting-place between East and West." Iranica antiqua, 20 (1985), pp. 55–99.
  • Wood, Michael (1997). In the Footsteps of Alexander the Great: A Journey from Greece to Asia. University of California Press. ISBN 0-520-23192-9

Đọc thêm

  • Edward Balfour (1885), “Kandahar”, Cyclopaedia of India (ấn bản 3), London: B. Quaritch
  • Boulger, Demetrius Charles. Ought We to Hold Candahar?. London: William H. Allen and Company (1879).
  • Holdich, Thomas Hungerford (1911). “Kandahar” . Encyclopædia Britannica. 15 (ấn bản 11). tr. 648–649.
  • C. Edmund Bosworth biên tập (2007). “Kandahar”. Historic Cities of the Islamic World. Leiden: Koninklijke Brill.

Liên kết ngoài