Lưu Tiến

Lưu Tiến (chữ Hán: 劉進; 113 TCN - 91 TCN), còn gọi Sử hoàng tôn (史皇孫), là con trai của Lệ Thái tử Lưu Cứ, do đó là cháu nội của Hán Vũ Đế Lưu Triệt thời Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là sinh phụ của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân.

Lưu Tiến
劉進
Thông tin chung
Sinh113 TCN
Mất91 TCN
An tángPhụng Minh (奉明)
Thê thiếpĐiệu hậu Vương Ông Tu
Hậu duệHán Tuyên Đế Lưu Tuân
Thụy hiệu
Điệu hoàng khảo
(悼皇考)
Thân phụLưu Cứ
Thân mẫuSử Lương đệ

Tiểu sử

Sinh ra ở Đông Cung

Sử hoàng tôn Lưu Tiến sinh vào năm Nguyên Đỉnh thứ 4 (113 TCN) thời Hán Vũ Đế, mẹ là Sử Lương đệ. Khi ấy, Lưu Cứ đang là Hoàng thái tử, được gọi là Vệ Thái tử theo họ mẹ là Hoàng hậu Vệ Tử Phu, Lưu Tiến cũng được gọi theo họ mẹ Sử thị, nên gọi [Sử hoàng tôn][1]. Bậc "Lương đệ" trong Thái tử cung vốn chỉ là hàng thiếp, dưới Thái tử phi, tuy nhiên do Vệ Thái tử không lập Thái tử phi, địa vị của Sử thị là cao nhất, thông qua cách gọi theo họ mẹ tương tự cha ruột Lưu Cứ, có thể thấy rõ phần nào địa vị của Lưu Tiến trong gia đình hoàng thất nhà Hán.

Trong năm Thái Thủy (từ 96 đến 93 TCN), Lưu Tiến sủng ái Gia nhân tử Vương Ông Tu. Năm Chinh Hòa thứ 2 (91 TCN), Vương thị sinh ra Hoàng tằng tôn Lưu Bệnh Dĩ, thân phận liền từ Gia nhân tử lên hàng Phu nhân. Chỉ sau vài tháng, Vụ án Vu cổ phát sinh, cả nhà Vệ Thái tử đều bị xử tử, bao gồm Lưu Tiến cùng Vương phu nhân, chỉ duy nhất Lưu Bệnh Dĩ còn sống sót. Lưu Tiến cùng Vương phu nhân và hai con gái khác của Vệ Thái tử được táng ở phía Bắc của Quảng Minh (廣明)[2][3].

Truy tôn

Sau khi Hán Chiêu Đế băng hà, Hoắc Quang lập Xương Ấp vương Lưu Hạ kế vị. Nhưng sau 27 ngày, Lưu Hạ bị phế truất do thiếu khả năng trị vì. Thế là, Hoằng tằng tôn Lưu Bệnh Dĩ, con trai Sử hoàng tôn Lưu Tiến cùng Vương Ông Tu được Hoắc Quang chọn làm người kế vị Chiêu Đế, sử gọi Hán Tuyên Đế.

Năm Nguyên Bình nguyên niên (74 TCN), tháng 7, ngày Canh Thân, Hán Tuyên Đế tức vị. Năm Bổn Thủy nguyên niên (73 TCN), tháng 6, hạ chiếu nói:"Cố Hoàng thái tử táng ở huyện Hồ, không có thụy hiệu, cũng không có bốn mùa hiến tế theo lễ, nay nên nghị định thụy hiệu, thiết trí viên tẩm cùng an bài dân hộ trông coi lăng viên". Quan viên tâu lên nên truy tôn cho Thái tử Lưu Cứ, Sử lương đệ, Sử hoàng tôn cùng Vương phu nhân[4][5]. Tấu viết:

Lý giải thụy hiệu Điệu của Lưu Tiến, sách Dật chu thư (逸周书), phần giải thích ý nghĩa chữ thụy có nói: [Niên trung tảo yêu viết Điệu; 年中早夭曰悼]. Lưu Tiến do sự cố mà mất năm 24 tuổi, thụy hiệu này là hợp lý[6].

Năm Nguyên Khang nguyên niên (65 TCN), Thừa tướng Ngụy Tương dâng tấu sớ nói:"Kinh Lễ viết:'Phụ vi sĩ, tử vi thiên tử, tế dĩ thiên tử'. Điệu viên nên thượng tôn làm Hoàng khảo, lập Miếu, ở trong lăng viên thành lập tẩm điện, dùng lễ nghi Thiên tử mà cúng bái. Gia tăng hộ cung phụng thành 1.800 hộ, thiết trí Phụng Minh huyện. Tôn Lệ phu nhân làm Lệ hậu, thiết trí lăng viên cùng thái ấp cung phụng lên 300 hộ"[7][8].

Xem thêm

Tham khảo