Người Hazara

Người Hazara (tiếng Ba Tư: هزاره‎, tiếng Hazara: آزره‎) là một dân tộc bản địa vùng Hazarajat miền trung Afghanistan, nói phương ngữ Hazara của tiếng Dari[11][12][13] (một dạng tiếng Ba Tư và là một trong hai ngôn ngữ chính thức của Afghanistan).

Người Hazara
هزاره
Học sinh Hazara ở Bamyan, 2012
Tổng dân số
7–8 triệu[1]
Khu vực có số dân đáng kể
 Afghanistan~2.300.000 đến ~3.000.000 (7-9%)[2]
 Pakistan900.000. Ngoài ra, có khoảng ~ 40.000 công dân Afghanistan gốc Hazara tại Pakistan (2005)[3][4]
 Iran500.000[5]
 Châu Âu130.000[6]
 Úc18.000 (2014)[7]
 Canada4.300[8]
 Indonesia3.800[9]
Ngôn ngữ
Phương ngữ Hazara/tiếng Dari (các dạng tiếng Ba Tư)
Tôn giáo
Chủ yếu theo Hồi giáo Shia (Twelver và Ismaili), với thiểu số theo Hồi giáo Sunni (xem người Hazara Aimaq)[10]
Sắc tộc có liên quan
Các dân tộc Turk, Người Mông Cổ

Người Hazara đại đa số là tín đồ Hồi giáo Shia Twelver và là dân tộc đông người thứ ba tại Afghanistan.[14][15][16][17] Họ cũng là một dân tộc thiểu số đáng kể tại Pakistan, với dân số 500.000–900,000,[4][18] phần lớn sống ở vùng Quetta.

Một người đàn ông Hazara.

Tên gọi

Babur, người thành lập Đế quốc Mughal vào đầu thế kỷ 16, ghi nhận cái tên Hazara trong tự truyện của ông, khi nhắc đến dân cư của Hazaristan, tọa lạc phía tây của vùng Kabulistan, phía bắc của Ghazna, và phía tây nam của Ghor.[19]

Một giả thuyết thường gặp là Hazara bắt nguồn từ từ "ngàn" (هزار hezār) trong tiếng Ba Tư. Đây có thể là một dịch ngữ từ ming (minggan) tiếng Mông Cổ, tức một đơn vị gồm 1.000 lính vào thời Thành Cát Tư Hãn.[20][21][22] Thời cổ, từ Hazar có lẽ từng được dùng thay thế với từ tiếng Mông Cổ và hay là tên của dân tộc.[23]

Nguồn gốc

Một phần nguồn gốc Nội Á của người Hazara—mà về mặt sử cảnh, là của người Đột Quyết (Turk) và người Mông Cổ—là không thể bị phủ nhận, thể hiện qua đặc trưng ngoại hình,[24] cấu trúc xương mặt cũng như một phần văn hóa và ngôn ngữ giống với của người Mông Cổ và Turk. Do đó, người Hazara, một cách rộng rãi và phổ biến,[25] được cho là có nguồn gốc Mông Cổ. Phân tích di truyền cũng cho thấy họ có tổ tiên Mông Cổ.[26]

Những cô gái Hazara mặc hijab đỏ truyền thống ngồi cạnh những cô gái TajikPashtun, tại Ghazni, Afghanistan.

Văn hóa

Người Hazara định cư ngoài Hazarajat (tức "xứ Hazara") đã tiếp nhận nền văn hóa của thành phố mà họ cư ngụ, và trong nhiều người hợp đã bị Pashtun hóa hay Ba Tư hóa. Truyền thống, người Hazara là nông dân vùng cao và ít đi lại, tại Hazarajat, họ đã lưu giữ nhiều phong tục và tập quán với những nét tương đồng với cư dân vùng Trung Á. Nhiều nhạc công Hazara giỏi chơi dambura, một loại đàn luýt. Người Hazara thường sống trong nhà hơn là lều.[27]

Ngôn ngữ

Người Hazara ở Hazarajat (Hazaristan) nói phương ngữ Hazara,[13][28] một dạng tiếng Dari với một số đáng kể từ mượn gốc TurkMông Cổ.[29][30][31] Điểm khác biệt lớn giữa tiếng Dari chuẩn và phương ngữ Hazara là giọng[12] và số từ mượn gốc Mông Cổ ở phương ngữ Hazara.[13] Dù có những sự khác biệt trên, người nói phương ngữ Hazara vẫn có thể thông hiểu tiếng Dari chuẩn.[11]

Chú thích