Nguyễn Khoa Điềm

nhà thơ, chính khách người Việt Nam

Nguyễn Khoa Điềm (tên khác là Nguyễn Hải Dương; sinh 15 tháng 4 năm 1943) là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Ông là cựu sinh viên của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.[1]

Nguyễn Khoa Điềm
Chức vụ
Nhiệm kỳ21 tháng 4 năm 2001 – 30 tháng 4 năm 2006
5 năm, 9 ngày
Tiền nhiệmHữu Thọ
Kế nhiệmTô Huy Rứa
Nhiệm kỳ6 tháng 11 năm 1996 – 27 tháng 6 năm 2001
4 năm, 233 ngày
Tiền nhiệmTrần Hoàn
Kế nhiệmPhạm Quang Nghị
Vị trí Việt Nam
Nhiệm kỳ1995 – 2000
Tiền nhiệmVũ Tú Nam
Kế nhiệmHữu Thỉnh
Vị trí Việt Nam
Nhiệm kỳ1994 – 6 tháng 11 năm 1996
Vị trí Việt Nam
Ủy viên Bộ Chính trị
Bí thư Trung ương Đảng khóa IX
Nhiệm kỳ22 tháng 4 năm 2001 – 25 tháng 4 năm 2006
5 năm, 3 ngày
Thông tin chung
Quốc tịch Việt Nam
Sinh15 tháng 4, 1943 (80 tuổi)
thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế, Liên bang Đông Dương
Nghề nghiệpnhà thơ, chính trị
Cha mẹHải Triều
Học vấnĐại học Sư phạm Hà Nội

Tiểu sử

Nguyễn Khoa Điềm sinh tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân sinh của ông là nhà báo Hải Triều, thuộc dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng,[2] gốc An Dương (tỉnh Hải Dương cũ nay là Hải Phòng).[3] Quê quán: làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Lúc nhỏ Nguyễn Khoa Điềm học ở quê. Năm 1955 ông ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, cùng lứa với Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân.[4]

Sau đó, ông vào miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế; tham gia quân đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ,... cho đến năm 1975. Nguyễn Khoa Điềm từng bị giam tại nhà lao Thừa Phủ. Đến chiến dịch Mậu Thân 1968, ông được giải thoát, tiếp tục trở lại hoạt động. Vào thời điểm này, Nguyễn Khoa Điềm mới bắt đầu làm thơ.[4]

Nguyễn Khoa Điềm trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1975. Sau 1975, ông tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản; Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế. Ông có mặt trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III. Năm 1994 Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, làm Thứ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin. Năm 1995, ông được bầu làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V.[2][5]

Năm 1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nguyễn Khoa Điềm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X và từ tháng 11 năm 1996 là Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.[6] Năm 2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001 – 2006).[2][7]

Hiện nay, ông đã nghỉ hưu và sống tại Thành phố Huế.

Danh mục tác phẩm

  • Báo động
  • Bếp lửa rừng
  • Bước chân - Ngọn đèn
  • Cái nền căm hờn
  • Cát trắng Phú Vang
  • Chiều Hương Giang
  • Con chim thời gian
  • Con gà đất, cây kèn và khẩu súng
  • Đất ngoại ô (1973)
  • Mặt đường khát vọng (1974)
  • Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)
  • Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990)
  • Cửa thép (1972)
  • Đất và khát vọng
  • Trường ca
  • Đất nước
  • Giặc Mỹ
  • Gửi anh Tường
  • Hình dung về Chê Ghêvara
  • Hồi kết cuộc
  • Khoảng trời yêu dấu
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
  • Lau
  • Lời chào
  • Màu xanh lên đường
  • Mùa Xuân ở A Đời
  • Ngày vui
  • Nghĩ về một nhãn hiệu
  • Người con gái chằm nón bài thơ
  • Nơi Bác từng qua
  • Nỗi nhớ
  • Tháng chạp ở Hồng Trường
  • Thưa mẹ con đi
  • Tiễn bạn cuối mùa đông
  • Tình Ca
  • Tôi lại đi đường này
  • Trên núi sông
  • Từ những gì các anh trao?
  • Tuổi trẻ không yên
  • Vỗ Hờn
  • Xanh xanh bóng núi
  • Xuống đường
  • Mẹ và Quả
  • Miền Quê

[2][8][9]

Đã xuất bản

Giải thưởng

  • Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ "Ngôi nhà có ngọn lửa ấm".[5]
  • Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (giải B) với tập thơ "Cõi lặng" - năm 2010.[10]
  • Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.[11]

Chú thích

Liên kết ngoài