Phân biệt chủng tộc ở Việt Nam

Phân biệt chủng tộc ở Việt Nam chủ yếu do người Kinh chiếm đa số và chủ yếu chống lại các dân tộc thiểu số như người Thượng, người Chăm và người Khmer Krom. Nạn đó cũng chống lại những người da đen từ các nước khác trên toàn thế giới, nhất là những du khách da đen ở Việt Nam.[1]

Người Chăm

Người Chăm ở Việt Nam chỉ được chính phủ Việt Nam công nhận là một dân tộc thiểu số, và không phải là dân bản địa mặc dù là người bản địa ở miền TrungNam Việt Nam. Cả người Chăm theo đạo Hinduđạo Hồi đều đã trải qua sự đàn áp tôn giáo và sắc tộc và những hạn chế về tín ngưỡng của họ dưới chính quyền Việt Nam hiện tại, với việc nhà nước Việt Nam tịch thu tài sản của người Chăm và cấm người Chăm theo tôn giáo của họ. Các đền thờ Ấn Độ giáo bị biến thành địa điểm du lịch đi ngược lại mong muốn của người Chăm theo đạo Hindu. Trong năm 2010 và 2013, một số vụ việc đã xảy ra tại các làng Thành Tín và Phươc Nhơn nơi người Chăm bị người Việt sát hại.

Đồng bào vùng cao

Các phương tiện truyền thông chính phủ thống trị người Kinh đã tuyên truyền những định kiến ​​tiêu cực về các dân tộc thiểu số vùng cao, gán cho họ là "ngu dốt", "mù chữ", "lạc hậu" và cho rằng họ nghèo và kém phát triển vì họ không có kỹ năng kinh tế và nông nghiệp..[2] Người Kinh định cư ở vùng cao có định kiến ​​và quan điểm tiêu cực về người vùng cao, hầu như không có bất kỳ cuộc hôn nhân nào và ít tương tác vì họ cố tình chọn sống ở các bản làng khác với các dân tộc Kinh khác. Chính phủ Việt Nam đã thúc đẩy việc di cư của người Kinh lên vùng cao như mang lại "sự phát triển" cho người dân vùng cao.[3]

Người Thượng

Người Thượng được hình thành từ nhiều bộ tộc khác nhau là bản địa của Tây Nguyên Việt Nam. Trong quá khứ, người Thượng được người Việt gọi là "mọi" (man rợ).[4][5] Sách giáo khoa Việt Nam từng mô tả người Thượng là những người có đuôi dài và nhiều lông trên cơ thể.[6] Ngày nay, thuật ngữ không xúc phạm "người Thượng" (người vùng cao), được sử dụng để thay thế.

Năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm đưa ra các chương trình tái định cư người Kinh Việt Nam và các dân tộc thiểu số phía Bắc vào Tây Nguyên. Các chương trình này cũng tìm cách hòa nhập người Thượng vào xã hội chính thống của Việt Nam[7] Đây là khởi đầu của cuộc đấu tranh giữa người Kinh và người Thượng. Sau chiến tranh Việt Nam, chính phủ đã khuyến khích người Kinh tái định cư ở vùng cao nguyên để trồng cà phê sau khi nhu cầu về cà phê trên thế giới bùng nổ.[8] Khoảng 1.000.000 người Kinh bị buộc phải tái định cư đến các vùng cao nguyên miền Trung.[9] Việc tái định cư này đã gây ra xung đột giữa người Kinh và người Thượng vì người Thượng cho rằng người Kinh đang lấn chiếm đất đai của họ. Cuộc xung đột này dẫn đến sự phẫn nộ của người Thượng dẫn đến một số cuộc biểu tình chết người chống lại người Kinh.[8]

Người Thượng đã phải đối mặt với sự đàn áp tôn giáo từ chính quyền cộng sản Việt Nam kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc.[10] Chính phủ Việt Nam có danh sách các tổ chức tôn giáo được chính phủ phê duyệt và yêu cầu tất cả các nhóm tôn giáo phải đăng ký với chính phủ. Bất kỳ nhóm tôn giáo nào bị coi là đi ngược lại lợi ích quốc gia đều bị đàn áp và đóng cửa. Chính phủ Việt Nam tuyên bố các nhóm tôn giáo người Thượng độc lập lợi dụng tôn giáo để kích động bất ổn. Họ sử dụng điều này để biện minh cho việc bắt giữ, giam giữ và thẩm vấn các nhà hoạt động chính trị người Thượng, các nhà lãnh đạo, và đóng cửa các nhà thờ người Thượng chưa đăng ký. Những người theo dõi các nhà thờ không đăng ký và các nhà hoạt động tôn giáo cũng đã bị chính quyền sách nhiễu, bắt giữ, bỏ tù hoặc quản thúc tại gia.[11][12]

Năm 2001 và 2004, đã có hàng ngàn người Thượng phản đối. Họ phản đối sự đàn áp và đàn áp tôn giáo từ chính phủ Việt Nam và đòi lại đất đai của họ.[13][14] Năm 2001, có một phong trào đòi độc lập của người Thượng do các thành viên tổ chức MFI tạo điều kiện.[15] Những cuộc biểu tình này dẫn đến những cái chết và những vụ bỏ tù hàng loạt.[16]

Khmer Krom

Xem thêm

Tham khảo