Phạm Đình Chương

nhạc sĩ người Việt Nam (1929–1991)

Phạm Đình Chương (19291991) là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam. Ông còn là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc.[1][2]

Phạm Đình Chương
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Phạm Đình Chương
Ngày sinh
14 tháng 11, 1929
Nơi sinh
Hà Nội, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương
Mất
Ngày mất
22 tháng 8, 1991(1991-08-22) (61 tuổi)
Nơi mất
California, Hoa Kỳ
Giới tínhnam
Dân tộcKinh
Nghề nghiệp
Sự nghiệp âm nhạc
Nghệ danhHoài Bắc
Giai đoạn sáng tác1946–1991
Dòng nhạc
Nhạc cụGiọng hát
Thành viên củaBan hợp ca Thăng Long
Ca khúcNửa hồn thương đau
Ly rượu mừng
Đón xuân

Cuộc đời

Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một dòng họ mà hầu hết đều làm văn nghệ. Chú ông là nhà văn Trúc Khê, nhạc sĩ Phạm Ngọc Cẩn. Cô là nghệ sĩ Song Kim, dượng là nhà thơ Thế Lữ. Anh ông là họa sĩ Phạm Văn Đôn và nhạc sĩ Phạm Văn Chung.

Cha của Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long.

Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: Trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái (ca sĩ Thái Hằng, vợ Phạm Duy). Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh (ca sĩ Thái Thanh).

Phạm Đình Chương theo học trường Bưởi đến trung học thì nghỉ học, gia nhập đoàn ca kịch lưu diễn ở nông thôn vào năm 1946.

Năm 1951, ông về Hà Nội lập ra ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng.

Năm 1953, ông lập gia đình với ca sĩ Khánh Ngọc (sinh năm 1937, tên thật là Hàn Thị Lan Anh) rồi chuyển vào Sài Gòn sống.

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông định cư tại California, Hoa Kỳ.

Ông mất 22 tháng 8 năm 1991 tại California.

Sự nghiệp âm nhạc

Phạm Đình Chương được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, ông cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.

Phần nhiều những tác phẩm của Phạm Đình Chương thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Hai sáng tác đầu tiên Ra đi khi trời vừa sángHò leo núi đều có không khí hào hùng, tươi trẻ.

Năm 1951, ông về thành. Với nghệ danh Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng, du ca khắp các thành phố lớn của Nam Việt Nam lúc đó. Thời kỳ này, các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình: Khúc giao duyên, Được mùa, Tiếng dân chài... Thời gian sau, ông viết nhiều bản nhạc vui tươi hơn: Xóm đêm, Ly rượu mừng, Đón xuân...

Khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào bốn ca khúc da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: Đêm cuối cùng, Thuở ban đầu, Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau.[3]

Phạm Đình Chương cũng phổ nhạc từ thơ. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài bất hủ, có một sức sống riêng như: Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê)... Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc Việt Nam bài trường ca bất hủ Hội Trùng Dương nói về ba con sông đại diện cho ba miền: sông Hồng, sông Hươngsông Cửu Long.

Tác phẩm

NămTên bài hátChú thích
1946Ra đi khi trời vừa sángViết chung với Phạm Duy
1948Thanh niên tiến lên
1949Trăng rừng
Kiếp Cuội già
1950Chiều buồn
Bài ca tuổi trẻ
Khúc giao duyên
1951Sáng rừng
Mười thương
1952Đợi chờViết chung với Nhật Bằng
Hò leo núi
Ly rượu mừng
1953Đón xuân
Được mùa
Thuở ban đầu
1954Hội Trùng DươngTrường ca gồm 3 bài Tiếng sông Hồng, Tiếng sông Hương, Tiếng sông Cửu Long.
Chia tay ngày hè
1956Đất lành
Lá thư người chiến sĩ
Xuân tha hương
1957Mộng dưới hoaThơ Đinh Hùng
Mỗi độ xuân về
Tiếng dân chài
Sóng nước biếc
Xóm đêm
1958Lá thư mùa xuân
1959Đến trường
1960Mắt buồnThơ Lưu Trọng Lư, viết tặng Lệ Thu.
1961Buồn đêm mưaThơ Huy Cận
Màu kỷ niệmThơ Nguyên Sa
Đêm cuối cùng
1963Heo may tình cũThơ Cao Tiêu
1964Anh đi chiến dịch
Định mệnh buồn
1966Mưa Sài Gòn, mưa Hà NộiThơ Hoàng Anh Tuấn
1967Dạ tâm khúcThơ Thanh Tâm Tuyền
1968Bài ngợi ca tình yêuThơ Thanh Tâm Tuyền
Đêm màu hồngThơ Thanh Tâm Tuyền
1969Đôi mắt người Sơn TâyThơ Quang Dũng
Khi cuộc tình đã chếtThơ Du Tử Lê
Người đi qua đời tôiThơ Trần Dạ Từ
1970Nửa hồn thương đauThơ Thanh Tâm Tuyền
1980Bên trời phiêu lãng
Cho một thành phố mất tênThơ Hoàng Ngọc Ẩn
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biểnThơ Du Tử Lê
1981Đêm, nhớ trăng Sài GònThơ Du Tử Lê
Hạt bụi nào bay quaThơ Thái Tú Hạp
Quê hương là người đóThơ Du Tử Lê
1982Ta ở trời TâyThơ Kim Tuấn
?Trăng Mường LuôngBài hát Lào, Phạm Đình Chương ký âm và soạn lời ca.
Quật cường
Chiến thắng ca
Hùng ca dân tộc
Lạc hướng
Nhớ bạn tri âm

Chú thích