Phan Văn Giang
Phan Văn Giang (14/10/1960) là một tướng lĩnh, chính trị gia người Việt Nam, quân hàm Đại tướng. Ông hiện là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Phan Văn Giang | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 8 tháng 4 năm 2021 – nay 3 năm, 11 ngày |
Tiền nhiệm | Ngô Xuân Lịch |
Kế nhiệm | đương nhiệm |
Vị trí | Việt Nam |
Thứ trưởng |
|
Nhiệm kỳ | 8 tháng 4 năm 2021 – nay 3 năm, 11 ngày |
Bí thư | Nguyễn Phú Trọng |
Tiền nhiệm | Ngô Xuân Lịch |
Kế nhiệm | đương nhiệm |
Nhiệm kỳ | 31 tháng 1 năm 2021 – nay 3 năm, 79 ngày |
Tổng Bí thư | Nguyễn Phú Trọng |
Tiền nhiệm | Ngô Xuân Lịch |
Kế nhiệm | đương nhiệm |
Nhiệm kỳ | 2021 – 2026 |
Chủ tịch Quốc hội | |
Vị trí | Việt Nam |
Nhiệm kỳ | 17 tháng 5 năm 2016 – 1 tháng 6 năm 2021 5 năm, 15 ngày |
Tiền nhiệm | Đỗ Bá Tỵ |
Kế nhiệm | Nguyễn Tân Cương |
Phó Tổng Tham mưu trưởng |
|
Nhiệm kỳ | 12 tháng 4 năm 2016 – 7 tháng 4 năm 2021 4 năm, 360 ngày |
Bộ trưởng | Ngô Xuân Lịch |
Tiền nhiệm | Đỗ Bá Tỵ |
Kế nhiệm | Nguyễn Tân Cương |
Nhiệm kỳ | 2016 – nay |
Tổng Bí thư | Nguyễn Phú Trọng |
Nhiệm kỳ | Tháng 3 năm 2014 – Tháng 5 năm 2016 |
Tiền nhiệm | Bế Xuân Trường |
Kế nhiệm | Ngô Minh Tiến |
Nhiệm kỳ | Tháng 10 năm 2011 – Tháng 2 năm 2014 |
Tổng Tham mưu trưởng | Đỗ Bá Tỵ |
Nhiệm kỳ | Tháng 6 năm 2010 – Tháng 9 năm 2011 |
Tiền nhiệm | Trần Anh Vinh |
Kế nhiệm | Nguyễn Tân Cương |
Thông tin chung | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Sinh | 14 tháng 10, 1960 xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Nghề nghiệp | |
Dân tộc | Kinh |
Tôn giáo | Không |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam 4 tháng 12 năm 1982 41 năm, 137 ngày |
Học vấn | Tiến sĩ Khoa học quân sự |
Binh nghiệp | |
Thuộc | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Năm tại ngũ | 1978 – nay |
Cấp bậc | |
Chỉ huy | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Tham chiến | Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 |
Thân thế
Phan Văn Giang sinh ngày 14 tháng 10 năm 1960, quê quán xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.[1]
Giáo dục
Từ năm 1980 đến năm 1983, ông đã trúng tuyển và học tại Trường Sĩ quan Chỉ huy Kỹ thuật Tăng (ngày nay là Trường Đại học Sĩ quan Tăng - Thiết giáp). Ngoài chỉ huy kỹ thuật Tăng thiết giáp, ông còn được đào tạo về hậu cần và lục quân. Ông cũng được đào tạo để trở thành sĩ quan chỉ huy cấp chiến dịch và chiến lược tại Học viện Quốc phòng. Ông đã lấy bằng tiến sĩ khoa học quân sự tại Học viện Quốc phòng. Ông nói thành thạo tiếng Anh.[2]
Binh nghiệp và Chính trị
Phan Văn Giang bắt đầu cuộc đời binh nghiệp vào tháng 8 năm 1978. Khi nhập ngũ, ông là chiến sĩ thông tin thuộc Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 677, Sư đoàn 346. Tháng 2 năm 1979, khi cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, ông chiến đấu ở điểm cao 893 bản Pát, thuộc xã Cao Chương, huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng.[2][3]
Ngày 20 tháng 11 năm 1979, ông được cấp trên cho đi ôn văn hóa để thi vào Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp.[3] Tháng 8 năm 1980, ông được gọi vào Trường Cao đẳng Tăng - Thiết giáp để học nhưng chưa kịp học thì lại được gọi vào Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp.[3]
Ngày 4 tháng 12 năm 1982, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 9 năm 1983, Phan Văn Giang tốt nghiệp Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp; ông được phong quân hàm Trung úy, được điều động về công tác tại Sư đoàn 312, Quân đoàn 1 và giữ chức Trung đội trưởng Đại đội 3, Tiểu đoàn 1037.
Ngày 4 tháng 6 năm 1984, ông trở thành đảng viên chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 10 năm 1984, ông trở thành Đại đội phó Kỹ thuật Đại đội 1, Tiểu đoàn 1037.
Tháng 5 năm 1986, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Chi bộ, Đại đội trưởng Đại đội 1, Tiểu đoàn 1037.
Tháng 4 năm 1989, ông được bổ nhiệm giữ chức Đảng ủy viên Tiểu đoàn, Phó Tiểu đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng Tiểu đoàn 1037.
Tháng 10 năm 1993, ông được bổ nhiệm làm Trợ lý Phòng Tham mưu, Sư đoàn 312, Quân đoàn 1.
Tháng 4 năm 1996, ông được bổ nhiệm giữ chức Phó Tham mưu trưởng Trung đoàn 141, Sư đoàn 312, Quân đoàn 1.
Tháng 9 năm 1997, ông trở thành Đảng ủy viên Trung đoàn, Phó Trung đoàn trưởng - Tham mưu trưởng Trung đoàn 209, Sư đoàn 312, Quân đoàn 1.
Tháng 12 năm 1999, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Đảng ủy Trung đoàn, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 209, Sư đoàn 312, Quân đoàn 1.
Tháng 8 năm 2001, ông được bổ nhiệm giữ chức Phó Tham mưu trưởng Sư đoàn 312, Quân đoàn 1.
Tháng 6 năm 2003, ông trở thành Đảng ủy viên Sư đoàn, Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 312, Quân đoàn 1.
Tháng 11 năm 2003, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy Sư đoàn, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 312, Quân đoàn 1.
Tháng 8 năm 2008, ông được bổ nhiệm làm Đảng ủy viên Quân đoàn, Phó Tư lệnh về Quân sự Quân đoàn 1.
Tháng 2 năm 2009, ông trở thành Đảng ủy viên Quân đoàn, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân đoàn 1.
Tháng 6 năm 2010, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy Quân đoàn, Tư lệnh Quân đoàn 1.
Tháng 8 năm 2010, ông được thăng quân hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng.
Tháng 10 năm 2011, ông được bổ nhiệm làm Bí thư Đảng ủy Bộ Tổng Tham mưu - Cơ quan Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.[4]
Tháng 9 năm 2013, ông được thăng quân hàm từ Thiếu tướng lên Trung tướng.
Tháng 3 năm 2014, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Quân khu 1, đồng thời là Ủy viên Quân ủy Trung ương.
Ngày 26 tháng 1 năm 2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII.[5]
Ngày 12 tháng 4 năm 2016, tại Quyết định số 605/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bổ nhiệm Phan Văn Giang giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam.[6]
Ngày 17 tháng 5 năm 2016, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ký Quyết định số 955/QĐ-CTN bổ nhiệm Phan Văn Giang giữ chức Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; ông cũng đồng thời là Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.[7]
Ngày 1 tháng 9 năm 2017, ông được thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng.[8]
Ngày 30 tháng 1 năm 2021, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII. Ngày 31 tháng 1 năm 2021, tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, ông được bầu vào Bộ Chính trị.[9]
Ngày 8 tháng 4 năm 2021, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kỳ 2016-2021, Phan Văn Giang được bầu làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam.[10]
Ngày 12 tháng 7 năm 2021, ông được Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc quyết định thăng quân hàm từ Thượng tướng lên Đại tướng.[11]
Ngày 28 tháng 7 năm 2021, tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa XV, đã phê chuẩn, được Chủ tịch nước bổ nhiệm ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Chính phủ Việt Nam khóa XV, nhiệm kỳ 2021 – 2026.
Sáng ngày 17 tháng 6 năm 2021, ông được chỉ định các nhân sự tham gia Quân ủy Trung ương, nhiệm kỳ 2020-2025 [12].
Ngày 25 tháng 8 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1438/QĐ-TTg, bổ nhiệm ông Phan Văn Giang làm Ủy viên Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19, Trưởng Tiểu ban An sinh xã hội.
Khen thưởng
Huân chương, huy chương Việt Nam
- Huân chương Quân công hạng Nhất
- 02 Huân chương Quân công hạng Ba.
- Huân chương Chiến công hạng Nhất.
- Huân chương Chiến công hạng Nhì.
- Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất.[13]
- 02 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba.
- Huy chương Quân kỳ quyết thắng.
- Huy chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng (2023).[14]
Huân chương, huy chương nước ngoài
- Huân chương Hoàng gia Sahametrei hạng Nhất của Vương quốc Campuchia.
- Huân chương Hữu nghị của Liên bang Nga.[15]
- Huân chương Playa Girón của Cộng hòa Cuba.[16]
- Huân chương Tự do hạng Nhất, Nhì, Ba của CHDCND Lào.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Năm thụ phong | 1983 | 1985 | 1988 | 1992 | 1997 | 2001 | 2005 | 2010 | 2013 | 2017 | 2021 |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Cấp bậc | |||||||||||
Trung úy | Thượng úy | Đại úy | Thiếu tá | Trung tá | Thượng tá | Đại tá | Thiếu tướng | Trung tướng | Thượng tướng | Đại tướng |