Quản Lộ

Quản Lộ (chữ Hán: 管輅, 209 hoặc 210256) là thuật sĩ thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Quản Lộ
管輅
Tên chữCông Minh
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
209
Nơi sinh
Bình Nguyên, Đức Châu
Mất256
Giới tínhnam
Nghề nghiệpchính khách
Quốc tịchTrung Quốc
Thời kỳTam Quốc

Tiểu sử

Lộ tự Công Minh, là người quận Bình Nguyên (nay thuộc Sơn Đông), nước Ngụy. [TT 1] Cha của Lộ (không rõ tên) từng được làm huyện trưởng ở Tức Khâu, quận Lang Da và Lợi Tào kề cận Nghiệp Thành. [TT 2]

Lộ nổi danh về bói toán, nên láng giềng chẳng cần đóng cửa ngoài cũng không bị trộm cắp gì. Thanh Hà thái thú Hoa Biểu (con Hoa Hâm) triệu Lộ làm Văn học duyện, [TT 3] phụ trách Bắc huỳnh [d]. Bấy giờ bạn bè sĩ phu chẳng ai không than thở hâm mộ, [QT 1] nhưng bạn thân của ông là Triệu Khổng Diệu cho rằng vị trí ấy không tương xứng với tài năng của ông, đề nghị ông phục vụ Ký Châu thứ sử Bùi Huy, ông đồng ý. [QT 2] Nhờ Khổng Diệu tiến cử, Lộ được Bùi Huy triệu làm Văn học tòng sự. Lộ đàm luận rất hợp ý Huy, lần lượt được thăng làm Cự Lộc tòng sự, Trị trung và Biệt giá. [TT 4] [QT 3]

Năm Chánh Thủy thứ 9 (248), Lộ được Bùi Huy cử Tú tài. [TT 5] [QT 4] Năm Chánh Nguyên thứ 2 (255), Lộ được làm Thiếu phủ thừa. Tháng 2 ÂL năm sau, Lộ mất, hưởng thọ 48 tuổi. [TT 6]

Tính cách

Lộ có dung mạo xấu xí, dáng vẻ chẳng nghiêm trang mà còn ham rượu, khi ăn uống nói năng thì không để ý thân phận, nên người đời phần nhiều thì yêu thích mà không kính trọng ông. [TT 7] Tính Lộ khoan dung, phần nhiều nhẫn nhịn, không chê người ghét mình, không khen người yêu mình, thường muốn lấy đức báo oán, luôn nói: “Trung hiếu tín nghĩa, là căn bản của con người, không thể không đầy đặn; liêm giới tế trực, là trang sức của kẻ sĩ, không đủ để làm việc.” [QT 5] Lộ hiếu thảo với cha mẹ, hết lòng với anh em, hòa thuận với bạn bè, đều lấy nhân hòa xử thế, trọn đời không có khiếm khuyết; kẻ sĩ dù thích hay không, cũng đều chịu phục ông. [QT 6]

Lộ cho rằng đời này không có tri kỷ, tự nhận: “Người hiểu tôi ít, nên tôi quý vậy, há phải chặn dòng Giang, Hán, mới thấy rõ việc nước chảy đá mòn hay sao? Vui vẻ cùng Quý Chủ luận đạo, không muốn ngồi cùng thuyền với người đánh cá, là chí của tôi đấy!” [QT 7] Em trai của Lộ là Quản Thần cho biết Lộ từng thổ lộ không có biện pháp nào để so tài với những thuật sĩ đời xưa, đành chịu ôm hận. [QT 8]

Học vấn

Từ nhỏ Lộ đã yêu thích thiên văn, rất giỏi lý luận, được khen là có “dị tài”. [QT 9] Lên 15 tuổi, Lộ theo cha đến nha môn của huyện Tức Khâu, mới được đọc kinh Thi, Luận Ngữ rồi đến kinh Dịch, bắt được bộc lộ văn tài. Sau cuộc tranh luận ở nhà của thượng cấp của cha là Lang Da thái thú Thiện Tử Xuân, Lộ được Tử Xuân đánh giá rất cao, nhờ vậy mà nổi danh là thần đồng. [QT 10]

Lộ theo người huyện Lợi Tào là Quách Ân học kinh Dịch, học thiên văn, chưa đến 1 năm đã vượt qua cả thầy, khiến Ân phải hỏi ngược lại ông. Từ rày Lộ bói cỏ thi các việc bệnh chết, giàu nghèo cho bạn học, chẳng gì không trúng, được khen là thần nhân. [QT 11] Đến khi trưởng thành, Lộ tinh thông Chu Dịch, rành rẽ hết thảy các ngành ngắm thiên văn, đoán gió thổi, bói mai rùa, bói cỏ thi, xem tướng người,... [QT 12]

Sự tích

Sự tích về Lộ được lưu truyền hầu như dựa vào Quản Lộ biệt truyện do Quản Thần chấp bút, nhưng chính Thần tự nhận tuy có điều kiện gần gũi anh trai, nhưng bản thân tài năng kém cỏi, [QT 13] chỉ có thể truyền tải một, hai phần mười năng lực của Lộ. [QT 14] Bùi Tùng Chi khảo xét, có danh sĩ đầu đời Tây Tấn là Diêm Toản (cháu nội Diêm Phố) vốn không tin vào Huyền học, từng được Quản Thần cho xem ghi chép về Lộ qua lời kể của danh Nho Lưu Thực, Thần cũng thừa nhận với Toản rằng mình chỉ giữ được một, hai phần mười. [BTC 1] Ngoài ra còn có Tiền nhiệm Trường Quảng thái thú Trần Thừa nghe được Thành môn hiệu úy Hoa Dị (tự Trường Tuấn, con Hoa Biểu) nhận rằng đã từng thân thiết với Lộ ở quận Thanh Hà, cho biết khi ấy Thần còn ở quê nhà, không biết được bao nhiêu chuyện của Lộ. Hoa Dị kể rằng sự tích về Lộ mà mình biết nhiều gấp 3 lần của Biệt truyện. [BTC 2]

Bói toán

Ở huyện Lợi Tào, Quách Ân mời một mình Lộ đến nhà, tiếp đãi trọng thể, khiến ông bói cỏ thi để tìm hiểu tại sao ba anh em mình đều bị khoèo. [QT 15] [TT 8] Quẻ xong, Lộ nói riêng với Ân rằng: [QT 16] “Quẻ nhắc đến mộ gốc nhà anh, trong mộ có nữ quỷ, chẳng phải bá mẫu thì cũng là thúc mẫu của anh. Khi xưa mất mùa đói kém, các anh tham lợi ích là mấy thăng gạo, xô người ta xuống giếng, nghe tiếng kêu the thé, đẩy thêm tảng đá, ghè vỡ đầu ra, cô hồn oan ức đau đớn, tố cáo lên trời.” Ân chảy nước mắt mà nhận tội, [TT 9] [QT 17] lại hỏi vạ này có hại đến đời sau hay không, Lộ nói không việc gì. [QT 18]

Cũng ở huyện Lợi Tào, có dân ở đồn điền bắt được hươu, bị trộm mất. Lộ nói: “Kẻ trộm là nhà thứ ba trong hẻm phía đông của nhà mày. Mày đi thẳng đến trước cửa, chọn lúc không có người, lấy một viên ngói, lén nhấc cái đòn thứ 7 ở đầu phía đông trong buồng xay gạo của họ, đặt viên ngói xuống. Không quá giờ cơm của ngày mai, hắn tự đem trả mày.” Đêm ấy, vợ tên trộm phát bệnh đau đầu, tráng nhiệt đau nhức, rồi cũng đến gặp Lộ để bói. Lộ bảo bị ma ám, đòi tên trộm trả lại chỗ cũ thứ đã lấy. Lộ ngầm bảo chủ con hươu đem về, rồi quay lại nhà tên trộm, bỏ viên ngói đi, thì vợ tên trộm khỏi bệnh. [BTC 3]

Vợ của người quận Quảng Bình là Lưu Phụng Lâm bệnh nặng, đã mua sẵn gỗ đóng quan tài. Tháng giêng, Phụng Lâm khiến Lộ xem bói, ông nói tháng 8 thì mất. Phụng Lâm không tin, mà người vợ cũng khá hơn. Đến tháng 8, bệnh trở nặng, quả nhiên như lời Lộ. [TT 10]

Lộ đến thăm An Bình thái thú Vương Cơ, ông ta lệnh cho Lộ làm quẻ, ông nói: “Sắp có người đàn bà ti tiện sanh 1 bé trai, rơi xuống đất liền chạy vào bếp rồi chết. Trên giường sắp có 1 con rắn lớn ngậm bút, mọi người xúm lại nhìn xem, chốc lát thì bỏ đi. Có con quạ bay vào nhà, đánh nhau với chim én, én chết, quạ đi. Đấy là 3 việc lạ.” Cơ cả sợ, hỏi lành gở thế nào. Lộ trả lời không đáng lo. Sau đó quả nhiên Cơ không gặp việc gì. [TT 11]

Bấy giờ đàn bà trong nhà của Tín Đô huyện lệnh kinh hãi, thay nhau bệnh tật, ông ta khiến Lộ bói cỏ. Lộ nói: “Góc tây của gian bắc nhà anh có 2 thây đàn ông, 1 người cầm mâu, 1 người cầm cung tên, đầu ở trong tường, chân ở ngoài tường. Người cầm mâu muốn đâm vào đầu, nên đầu đau nặng không nhấc lên được; người cầm cung tên muốn nhắm vào bụng, nên bụng đau quặn không thể ăn uống được. Ngày thì trôi dạt, đêm thì gây bệnh, nên khiến người nhà kinh hãi.” [TT 12] Vương Cơ lập tức sai Tín Đô lệnh đào nhà, xuống sâu 8 thước, quả nhiên tìm được 2 cái quan tài, 1 quan có mâu, 1 quan có cung bằng sừng và tên, tên đã lâu ngày, gỗ cũng mục nát, nhưng sắt với sừng vẫn còn. Bấy giờ Tín Đô lệnh dời hài cốt ra ngoài thành 10 dặm để chôn đi, trong nhà không còn bệnh tật. [TT 13] [QT 19]

Lộ mới đến quận Thanh Hà, bói cho người đàn bà mất bò, nói bà ta đến bức tường cuối đường mặt tây, tìm trong các phần mộ, quả nhiên tìm được bò. Người đàn bà cho rằng có kẻ giấu bò, nên báo quan, nhờ vậy Ký Châu thứ sử Bùi Huy biết đến Lộ. [BTC 4]

Vợ của Hoa Dị là con gái của danh thần người Trác quận là Lư Dục (con Lư Thực), mắc bệnh, nhiều năm không đỡ. Lộ bói được viên quan coi ngựa đang đến chỗ Lư Dục, sẽ được sung vào đội quân nam chinh sắp đến, có thể chữa bệnh cho Lư thị. Dục lập tức dâng biểu giữ người ấy lại, đưa đến nhà họ Hoa để chữa trị cho con gái mình. Lư thị được chữa khỏi, Dục tâu xin trừ bỏ thân phận coi ngựa cho người ấy, bổ làm Thái y. [BTC 5]

Người quận Thanh Hà là Vương Kinh rời chức về nhà, gặp Lộ, cho biết mình gặp chuyện lạ, nhờ ông bói. Quẻ xong, Lộ nói: “Hào lành, không có gì lạ. Ban đêm anh đứng trước cửa phòng, có 1 vệt sáng như én, sẻ, bay vào trong ngực, râm ran phát ra tiếng, khiến tâm tình không yên, lần lữa cởi áo, kêu gọi đàn bà trong nhà, tìm kiếm ánh sáng còn sót lại.” Kinh cả cười: “Thật như anh nói.” Lộ nói: “Lành, là điềm báo thăng quan đấy, sắp ứng nghiệm rồi.” Ít lâu sau, Kinh được làm Giang Hạ thái thú. [TT 14]

Lúc mới nhận hịch triệu của Ký Châu thứ sử Bùi Huy, Lộ cùng em trai là Quản Quý Nho đi cùng xe, đến phía tây huyện Vũ Thành, tự bói lành gở, nói với Nho rằng: “Sắp thấy 3 con lửng trong thành cũ, như vậy thì vẻ vang.” Đi đến góc thành cũ phía tây sông, thấy rõ 3 con lửng ở bên thành, hai anh em đều vui mừng. [TT 15]

Lộ ghé thăm nhà Ngụy quận thái thú Chung Dục (con Chung Do, anh Chung Hội). Dục cậy tài, đem hơn 20 vấn đề tự cho là rất khó trong kinh Dịch ra hỏi, Lộ nghe gì đáp nấy, nói năng trôi chảy, khiến Dục khâm phục. Lộ nhân đó nói: “Bói có thể biết ngày sanh – mất của anh.” Dục khiến Lộ bói cỏ ngày sanh, ông nói ra không sai, Dục rất ngạc nhiên. Lộ đề nghị Dục xem nốt ngày mất, ông ta từ chối: “Sống là chuyện tốt, chết là chuyện xấu, buồn vui phân biệt, tôi không thể biết cả, cứ phó mặc trời, không phó mặc anh.” [TT 16] [QT 20] Sau đó Dục hỏi Lộ: “Thiên hạ đang thái bình phải không?” Lộ nói: “Đương thời bốn chín bay lên trời, gặp đại nhân thì lợi, thần võ dựng nên, vương đạo sáng rõ, sao lo không thái bình?” Dục chưa hiểu lời Lộ, chẳng bao lâu, bọn Tào Sảng bị giết, mới nhận ra. [TT 17]

Ở Lạc Dương, có chàng trai giữa đường lạc mất vợ, Lộ bói, bảo anh ta vào sáng hôm sau, ở trong cửa Đông Dương, tìm người vác con heo sữa, níu lại mà đánh nhau với người ấy. Chàng trai làm theo, thành ra hai người ẩu đả, khiến con hẻo xổng ra bỏ chạy. Mọi người đuổi theo, con heo chạy vào nhà người ta, xô vỡ cái vò của chủ nhà, người vợ từ trong vò bước ra. [BTC 6]

Cũng ở Lạc Dương, có quan Đô úy trị nội sử mất đồ vật, Lộ bảo ông ta vào sáng hôm sau ra ngoài cửa nha môn mà nhìn, sẽ gặp một người, thì khiến người ấy chỉ trời vạch đất, giơ tay bốn hướng, tự sẽ tìm được. Đến chiều ông ta quả nhiên tìm được món đồ ấy ở chỗ cũ. [BTC 7]

Lộ về quận Bình Nguyên, thăm viếng láng giềng, gặp người chủ nhà lo buồn vì mấy lần gặp hỏa tai. Lộ bói, bảo chủ nhà vào ngày hôm sau ra đường nam, tìm một học trò đầu đội khăn, cưỡi xe trâu cũ, giữ anh ta lại qua đêm thì sẽ dứt tai vạ. Chủ nhà làm theo, bất chấp học trò nói có việc gấp xin đi, giữ lại bằng được. Học trò nghi sợ, không dám ngủ ở nhà trong, cầm đao ra gần cửa, tựa vào giữa 2 đống củi mà khép hờ mắt. Chợt có con vật nhỏ xông đến trước mặt học trò, trên tay cầm lửa. Học trò sợ, giơ đao chém chết con vật ấy, thì ra là con cáo. Từ ấy chủ nhà không gặp hỏa tai nữa. [BTC 8]

Đoán vật

Quán Đào huyện lệnh Gia Cát Nguyên được thăng làm Tân Hưng thái thú, Lộ đến đưa tiễn, khách khứa cũng đang tụ họp. [TT 18] Nguyên nhiều lần cùng Lộ chơi trò Xạ phúc mà không thắng nổi, nhân dịp này muốn phân thắng bại với ông. Bấy giờ có rất nhiều khách là người giỏi biện luận, một mình Lộ chống lại mọi người, nói đến khi tất cả chịu khuất phục mà vẫn chưa muốn dừng. [QT 21] Ngày hôm sau, Nguyên sắp lên đường, đề nghị Lộ chơi Xạ phúc. [QT 22] Nguyên tự tay đem trứng én, tổ ong, con nhện đậy lại, khiến Lộ đoán. Quẻ xong, Lộ nói: “Vật thứ nhất ngậm hơi đợi đổi, nương ở hiên nhà, trống mái nên hình, thong thả mở cánh, đây là trứng én vậy. Vật thứ 2 cả nhà treo ngược, cửa ngõ rất nhiều, giấu tinh nuôi độc, đến thu thì hóa, đây là tổ ong vậy. Vật thứ 3 chân dài run rẩy, nhả tơ thành màn, giăng lưới kiếm ăn, lợi vào đêm tối, đây là con nhện vậy.” Người ngồi đấy đều kinh ngạc. [TT 19]

Quan thái thú ở quận Bình Nguyên – quê cũ của Lộ – là Lưu Bân lấy túi đựng ấn và lông gà rừng đậy lại, khiến Lộ bói cỏ. Lộ nói: “Trong vuông ngoài tròn, năm màu nên văn, chứa vật báu giữ điều tín, đem ra dùng thì có phép tắc, đây là túi đựng ấn đấy. Núi cao chót vót, có chim mình đỏ, lông cánh tạp nhạp, hót không bỏ sáng, đây là lông gà rừng đấy.” [TT 20]

Thanh Hà huyện lệnh Từ Quý Long khiến người đi săn, đòi Lộ bói cỏ xem họ bắt được gì. Lộ nói: “Sắp bắt được thú nhỏ, không phải chim nhà, dẫu có nanh vuốt, nhỏ mà không mạnh, dẫu có vằn vện, sẫm mà không rõ, chẳng cọp chẳng trĩ, tên nó là lửng.” Người đi săn trở về, quả như lời Lộ. Quý Long lấy 13 món đồ, bỏ vào trong tráp, khiến Lộ đoán. Lộ nói đúng có 13 món, đầu tiên con gà, tiếp đến nhộng tằm, nhất nhất kể tên ra, chỉ lầm lược thưa ra lược bí mà thôi. [TT 21]

Nghe chim hót – Nghe gió hú

Lộ lại đến nhà Quách Ân, có con chim cưu đậu trên đầu xà, tiếng kêu rất buồn. Lộ nói: “Sắp có ông già từ phương đông đến, mang theo 1 con heo sữa, 1 bầu rượu. Chủ nhà dẫu vui, nhưng gặp chút chuyện.” Hôm sau quả nhiên có khách, như lời của Lộ. Ân đòi khách bớt rượu, kiêng thịt, cẩn thận củi lửa, rồi bắn gà để ăn, mũi tên xuyên qua khoảng trống cây cối, bắn trúng cánh tay bé gái mới vài tuổi, chảy máu gây sợ hãi. [TT 22] Ân bèn theo Lộ học đoán tiếng chim, Lộ nói ông ta tuy hiếu học, nhưng thiên phú ít ỏi, lại không hiểu âm luật, sợ khó dạy được. Lộ nói về sự thay đổi của gió 8 phương, số thứ tự của 5 âm, dùng luật – lữ để xác định âm Thương của các loài chim, lục giáp để xác định đầu mối của thời gian, xoắn xuýt vào nhau, ra vào không dứt. Ân yên lặng suy nghĩ, tập trung vài ngày, rốt cục không được. Ân nói: “Tài không ra gì, khó lòng tìm ra điềm báo ở nghề này.” Bèn thôi. [QT 23]

Lộ đến nhà người quận Bột Hải là An Đức huyện lệnh Lưu Trường Nhân, có chim thước đậu trên cửa mà kêu, tiếng rất gấp. Lộ nói: “Thước nói đông bắc có vợ mới giết chồng, đổ thừa chồng với láng giềng ở mé tây có vướng mắc, còn chưa hết ngày vào lúc hoàng hôn, người tố cáo sẽ đến.” Đến khi ấy, quả nhiên có người cùng Ngũ ở phía đông bắc đến tố cáo: vợ nhà láng giềng giết chồng, nói dối người ở nhà mé tây cùng chồng có hiềm khích, đến giết chồng mình. [TT 23]

Lộ đến nhà quan Điển nông hiệu úy của huyện Liệt Nhân là Vương Hoằng Trực, có gió lốc cao hơn 3 thước, từ tây nam bay đến, ở trong sân cuồn cuộn xoay vần, nghỉ chút lại nổi, hồi lâu mới dừng. Trực bèn hỏi Lộ, ông đáp: “Phương đông có viên lại coi ngựa đến, sợ rằng cha phải khóc con!” Hôm sau có viên lại ở Giao Đông đến, quả nhiên con trai của Trực mất. Trực hỏi duyên cớ, Lộ đáp: “Hôm qua là ngày Ất mẹo, ứng với trưởng tử đấy. Mộc rụng ở Thân, Đẩu kiến Thân, Thân phá Dần, ứng với việc tang đấy. Ban ngày vào giờ Ngọ lại có gió nổi lên, ứng với ngựa đấy. Ly là văn chương, ứng với viên lại đấy. Thân mùi là cọp, cọp là đại nhân, ứng với người cha đấy.” Có chim trĩ trống vào nhà Trực, đậu trên đầu cây cột treo phong linh, khiến ông ta rất lấy làm bất an, đòi Lộ làm quẻ; Lộ nói: “Đến tháng năm thì được thăng quan.” Bấy giờ là tháng ba, tới kỳ hẹn, Trực quả nhiên được làm Bột Hải thái thú. [TT 24]

Vào lúc được nghỉ, Lộ ghé thăm quan thái thú họ Nghê của quận Thanh Hà. Bấy giờ hạn hán, Nghê hỏi Lộ khi nào mưa, Lộ nói: “Đêm nay sẽ mưa.” Hôm ấy tạnh ráo, cả ngày không có vẻ gì, thuộc quan cùng Thanh Hà huyện lệnh ngồi đấy, đều cho rằng không đúng. Đến giữa canh một, trăng sao đều mất, gió mây cùng dậy, làm nên cơn mưa sảng khoái. Vì vậy Nghê thịnh soạn lễ chủ nhân, cùng nhau vui vẻ. [TT 25]

Xem tướng

Anh họ của Lộ là Quản Hiếu Quốc, sống ở Xích Khâu; Lộ đến thăm ông ta, gặp 2 người khách ở đấy. Sau khi khách đi, Lộ nói với Hiếu Quốc rằng: “Hai người này ở khoảng giữa thiên đình với miệng, tai đều có khí gở, tai vạ cùng đến, đôi hồn không mả, [TT 26] mùi nồng rượu độc, trời trong đêm tối, Khảm làm quan quách, Đoái làm xe tang, [QT 24] gởi hồn ở bể, xương trả về nhà, chẳng bao lâu nữa sẽ cùng chết đấy.” Vài mươi ngày sau, hai người uống rượu say, cùng ngồi xe trong đêm; bò giật mình nhảy khỏi đường, rơi xuống sông Chương; khiến cả hai chết đuối. [TT 27]

Ngày 28 tháng 12 ÂL năm Chánh Thủy thứ 9 (248), Lộ được Lại bộ thượng thư Hà Yến mời đến nhà, khi ấy Đặng Dương cũng ở đấy. Yến nói với Lộ: “Nghe nói anh hiểu rõ thần diệu của hào, thử làm 1 quẻ, xem tôi có làm đến ngôi tam công hay không?” Lại hỏi: “Liên tiếp mơ thấy vài chục con nhặng, bâu ở trên mũi, đuổi không chịu đi, có ý gì chăng?” Lộ nói: “Ôi con vọ là loài chim hèn trên đời, khi chúng ăn quả dâu trong rừng, thì kêu tiếng vui tai, huống hồ lòng Lộ chẳng phải cỏ cây, sao dám không hết lòng? Xưa Nguyên, Khải giúp đỡ Trọng Hoa, ban ơn giữ hòa, Chu công phù tá (Chu) Thành vương, ngồi mà đợi sáng, mới có thể tạo phúc thiên hạ, muôn nước đều yên. Đây là điềm lành của chính đạo, chẳng phải bói toán có thể làm rõ. Nay chức vị của quân hầu nặng tựa núi non, thế như sấm sét, nhưng nhớ đức thì ít, sợ oai thì nhiều, e trái với đạo lý của việc cầu phúc nhờ thái độ cung kính cẩn thận. Còn mũi là quẻ Cấn, đây là núi ở giữa trời, cao mà không nghiêng, mới giữ được giàu sang lâu dài vậy. Mà nay con nhặng bẩn thối lại đậu ở đấy. Ngồi chỗ cao thì ngã, khinh hào kiệt thì mất, không thể không nghĩ đến cái số của kiêu căng, cái hạn của thịnh suy. Vậy nên núi ở dưới đất gọi là quẻ chữ Khiêm, sấm ở trên trời gọi là quẻ chữ Tráng; Khiêm thì nhiều bớt ít thêm, Tráng thì trái lẽ đừng làm. Chưa có chuyện bớt cái tôi mà không hiển hách vẻ vang, làm việc trái mà không tổn thương thất bại. Xin quân hầu trên kịp theo ý tứ 6 hào của Văn vương, dưới nghĩ về nghĩa lý thoán tượng của cha Ni, rồi sau đạt được ngôi tam công, đuổi được nhặng vậy.” [TT 28]

Lộ quay về quê nhà, kể lại mọi chuyện cho cậu là Hạ đại phu, bị cậu trách mắng. Lộ nói: “Cùng người chết nói chuyện, còn sợ cái gì?” khiến cậu càng giận. Hơn 10 ngày sau, nghe tin bọn Yến, Dương bị giết, cậu mới khâm phục. [TT 29]

Cậu hỏi Lộ: “Ngày trước gặp Hà, Đặng, đã có khí gở chưa vậy?” Lộ nói: “Dáng đi đứng của Đặng, gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt, đứng dậy loạng choạng, như không chân tay, gọi là tướng quỷ táo. Vẻ hỏi han của Hà, hồn không giữ được nhà, máu không còn tươi màu, tinh thần vật vờ, dáng như củi khô, gọi là tướng quỷ u. Nên quỷ táo bị gió bắt, quỷ u bị lửa thiêu, là điềm báo tự nhiên, không thể che được.” [QT 25]

Quản Thần nói với Lộ rằng: “Đại tướng quân (tức Tư Mã Chiêu) đãi anh có vẻ hậu, có muốn giành lấy giàu sang không?” Lộ than dài nói: “Tôi biết mình có giới hạn, bởi trời cho tôi tài trí, không cho tôi tuổi thọ, e được chừng 47, 48 tuổi, không thấy con gái lấy chồng, con trai lấy vợ đấy. Nếu được bỏ qua lần này, tôi muốn làm Lạc Dương huyện lệnh, có thể khiến cho người qua đường không nhặt của rơi, trống kêu oan không cần vang lên. Nhưng e rằng phải đến Thái Sơn trị quỷ, không được trị người sống, làm sao đây!” Thần hỏi lý do, Lộ nói: “Tôi, trên trán không nuôi được cốt lõi, trong mắt được giữ được tinh hoa, mũi không có xà cột, cẳng không có gót chân, lưng không có ba chữ Giáp (甲), bụng không có 3 chữ Nhâm (壬), đây đều là bằng chứng không sống lâu. Lại thêm bản mệnh của tôi ở Dần, còn sanh vào đêm nguyệt thực. Trời có quy luật, không thể tránh khỏi, chỉ là người ta không biết mà thôi. Tôi trước sau giúp gánh cái chết cho hơn trăm người, chắc không sai đâu.” Tháng 2 ÂL năm sau, Lộ mất, hưởng thọ 48 tuổi. [TT 30]

Phong thủy

Lộ theo quân đội đi về phía tây, qua mộ nhà Quán Khâu Kiệm, dựa cây than thở, tinh thần không vui. Người ta hỏi lý do, Lộ nói: “Cây rừng dẫu tươi tốt, nhưng không có dáng vẻ lâu dài; văn bia dẫu hay ho, nhưng không có con cháu coi giữ. Huyền Vũ giấu đầu, Thương Long không chân, Bạch Hổ ngậm thây, Chu Tước thương khóc, bốn nguy cơ đã đủ, phép đáng bị diệt tộc. Không quá 2 năm, sẽ ứng nghiệm thôi.” Rốt cục như lời ông. [TT 31]

Lý luận

Lộ đoán những việc lạ trong nhà Vương Cơ, thấy không có gì hại, nhân đó khuyên ông ta rằng: “Xưa cái vạc của Cao Tông, chẳng phải nơi chim trĩ đậu; cái sân của nhà Ân, chẳng phải chốn cây cỏ mọc. Vậy mà chim hoang đến đậu, Vũ Đinh là Cao Tông; dâu, kê mọc lên, Thái Mậu được hưng thịnh đấy. Dẫu biết 3 việc này chẳng phải điềm lành, mong phủ quân an thân dưỡng đức, chớ để ý nghĩ về quỷ thần làm vẩn đục tính lương thiện.” (ý nói Vương Cơ nên tu thân tích đức, sẽ tránh được ông trời trừng phạt) [QT 26]

Người cùng quê là Nãi Thái Nguyên hỏi Lộ rằng: “Anh khi trước giúp Vương phủ quân bàn việc lạ, nói thư tá già là rắn, linh hạ già là quạ. Đấy vốn là người, sao hóa làm loài vật vậy? Chỉ dựa vào hào – tượng, sao anh biết được?” Lộ đáp: “Nếu chẳng phải tính và đạo trời, vì sao trái với hào – tượng mà dốc gan ruột như thế? Ôi sự thay thế của vạn vật, không có mãi một dáng vẻ, sự đổi khác của con người, không có mãi một cách thức, hoặc lớn thành bé, hoặc bé thành lớn, vốn không có hơn kém. Ôi sự thay thế của vạn vật, là đạo của mọi thứ đấy. Ấy mà Hạ Cổn là cha của thiên tử, Triệu vương Như Ý là con của Hán Cao Tổ, mà Cổn thành gấu vàng, Như Ý thành chó xám, ấy đều là bậc chí tôn mà trở thành loài mõm đen đấy. Huống hồ con rắn hợp với vị trí Thìn Tị, con quạ đậu ở trung tâm mặt trời, đây là hình tượng rõ ràng trong bóng tối, tia sáng rực rỡ giữa ban ngày; còn như thư tá, linh tá đem tấm thân nhỏ mọn hóa thành rắn, quạ cũng không quá đáng đâu!” [QT 27]

Vương Kinh muốn khiến Lộ bói cỏ, nhưng tỏ ý nghi ngại, Lộ cười mà trách rằng: “Quân hầu là người hiển đạt ở châu, sao lại nói lời hẹp hòi! Xưa Tư Mã Quý Chủ có nói, người bói toán ắt phải tuân phép trời đất, mô phỏng 4 mùa, dựa vào nhân nghĩa. Phục Hy làm bát quái, Chu Văn vương lập 384 hào, nên thiên hạ được trị. Có bệnh thì chữa, sắp chết thì sống, có nạn thì tránh, có việc thì nên, gả con lấy vợ thì sanh nở tốt, há vì mấy ngàn tiền ư? Lấy đấy mà suy, là việc quan trọng vậy. Nếu là sự sáng tỏ của đạo thì thánh hiền không bỏ qua, huống hồ tôi là tiểu nhân, dám tránh né ư!?” Kinh chắp tay xin lỗi: “Lời trước là đùa mà thôi.” Vì thế Lộ làm quẻ, nói gì cũng đúng. [QT 28]

Lưu Trường Nhân có tài biện bác, trước đã nghe Lộ có thể hiểu tiếng chim, sau khi gặp thì căn vặn ông rằng: “Con người lên tiếng (âm) gọi là nói (ngôn), chim thú lên tiếng (thanh) gọi là kêu (minh), nên biết nói là sanh linh cao quý có trí tuệ, biết kêu là sanh vật thấp hèn không trí tuệ, sao lại cho rằng tiếng kêu của chim là lời nói, làm rối loạn sự khác biệt do thần minh bày đặt như vậy? Khổng tử nói: ‘Tôi không cùng bầy với chim thú’, tỏ rõ sự mèn mọn của chúng vậy.” Lộ đáp rằng: “Trời dẫu có đại tượng nhưng không thể nói, nên vần các sao ở trên, giạt thần minh ở dưới, xem xét gió mây để nắm bắt khác lạ, điều khiển chim thú để giao tiếp quỷ thần. Nắm bắt khác lạ ắt dò biết lúc nổi lúc chìm, giao tiếp quỷ thần ắt cảm ứng tiếng cung tiếng thương, cho nên Tống Tương (công) thất bại, 6 con chim nghịch đều bay lui; Bá cơ sắp chết cháy, chim báo trước tai vạ; 4 nước chưa nổi lửa, gió đông bắc đã dậy, chim đỏ bay cạnh mặt trời, tai vạ xảy ra ở Kinh Sở. Đây là trời cao sai khiến, bùa sáng của tự nhiên. Xét luật lữ để biết gốc gác của âm thanh, đối với những việc mong muốn sẽ không lầm lành gở. Xưa, tổ tiên nước Tần nhờ công mà được phong, (Giới) Cát Lô nghe tiếng, chép ở kinh Xuân Thu, đều là chuyện có thật trong sách vở, chẳng phải lời hão của thánh hiền đâu. Nhà Thương nổi lên, nhờ cái trứng chim én đấy; (Chu) Văn vương nhận mệnh, chim đỏ ngậm sách. Đây là điềm lành của thánh nhân, vận tốt của nhà Chu, sao có thể xem là hèn mọn được? Ôi nghe tiếng chim kêu, tinh hoa ở (tinh thứ) Thuần Hỏa, kỳ diệu ở 8 thần, tự trái lẽ thường, giống như Tử Lộ đối với việc chết sống vậy.” Trường Nhân nói: “Anh nói dẫu nhiều, hay mà không thật, chưa thể tin được.” Ít lâu sau Lộ đoán đúng tiếng kêu của chim thước, Trường Nhân mới khâm phục. [QT 29]

Bàn về thuật xem gió, Lộ từng nói: “Ôi gió tùy lúc mà động, hào theo tượng mà ứng, lúc ấy chịu sự sai khiến của thần linh, tượng ấy là cái dáng vẻ trong lúc ấy; đạo lý của một lúc, chẳng đáng xem là nạn.” Vương Hoằng Trực vốn có chút kiến thức, đến nay gặp cơn gió xoáy trong sân nhà, hỏi thế này đã là điềm báo tai dị hay chưa, Lộ đáp: “Đây chỉ là lông tóc của gió, sao đáng xem là lạ? Nếu các sao không sáng, chư thần đi loạn, 8 gió bùng phát, hơi giận bay vọt, núi lở đá bay, cây cối ngã rạp, tung bụi muôn dặm, ngẩng không thấy trời, chim thú trốn tránh, muôn dân sợ hãi, vì thế phải sai bọn Tử Thận lên đài cao, xem tình hình, xét tai nạn, đoán thời điểm, thế mới biết là suy nghĩ của thần sâu xa, con gió của linh đáng sợ!” [QT 30]

Kết thúc cuộc tranh luận ở buổi đưa tiễn Gia Cát Nguyên, mọi người tỏ ra khâm phục Lộ, có bậc tuấn kiệt đương thời là Thái Nguyên Tài hỏi ông rằng: “Vốn nghe nói anh làm chó, sao ra vẻ là rồng vậy?” Lộ đáp: “Tiềm dương chưa đổi, chẳng phải điều mà anh biết được, có chăng là chó mới nghe được tiếng rồng ru!” [QT 31] Sau khi Lộ đoán trúng cả 3 vật, Nguyên yêu cầu Lộ giải thích. Lộ bèn mở hào giãn lý, tách phú so tượng, nói đâu đúng đấy, diệu không thể tả. Nguyên và khách khứa chẳng ai sau khi nghe xong không khen ngợi, còn vui hơn cả chơi Xạ phúc. Trước khi lên đường, Nguyên răn Lộ rằng: “Tính anh thích rượu, uống cũng được đấy, nhưng không thể giữ mãi như thế, phải giảm bớt đi. Anh có tài biết tuốt, giải thích đã hay, thiên văn càng giỏi, nhưng vạ như dầu gặp lửa, không thể không cẩn thận. Dựa vào tài sáng suốt của anh, có thể dạo chơi khắp dải Ngân Hà, chẳng lo không được phú quý đâu.” Lộ nói: “Uống không hết rượu, trổ không hết tài, tôi muốn lấy rượu làm lễ, lấy tài làm ngu, còn lo gì nữa?” [QT 32]

Lộ từ biệt Bùi Huy để lên kinh nhằm tiếp nhận đề cử Hiếu liêm, được Huy mách nước về đề tài khảo sát của Lại bộ thượng thư Hà Yến, ông cho rằng Yến giỏi mấy thì cũng chẳng hơn được mình: “Hà nếu hay khéo, cũng chỉ biết chất vấn sơ sài bên ngoài, chưa đến mức nhập thần. Nếu nhập thần thì phải suy thiên nguyên, tính âm dương, dò huyền hư, vẹn u minh, rồi mới nhận ra đạo là vô cùng, chứ nào nhàn rỗi nói chơi. Muốn so sánh Lão, Trang hơn kém, mà xen hào, tượng để nói bóng gió, chỉ là kỹ xảo tầm thường, chứ chẳng phải hay khéo gì đâu!” [QT 33] Lộ đến Lạc Dương gặp Yến, quả nhiên Yến đem các đề tài ấy ra bàn luận, ông đều trả lời rõ ràng. Yến nói: “Anh bàn âm dương, đời này vô song.” Bấy giờ Đặng Dương cũng ngồi ở đấy, hỏi: “Anh đã nói là giỏi Dịch, mà không nhắc đến câu nào trong Dịch, sao vậy?” Lộ đáp ngay: “Ôi giỏi Dịch thì không bàn Dịch.” Yến khen rằng: “Có thể nói là lời trọng yếu không rườm rà vậy.” [QT 34] Nhân đó Yến mời Lộ làm quẻ đoán xem mình có làm đến tam công hay không? Lộ mượn chuyện xưa để khuyên răn hai người, [QT 35] [LNK 1] Dương nói: “Đây là người già nói xàm.” Lộ đáp rằng: “Ôi người già không còn là người, nói xàm xem như chưa nói.” [TT 32] Yến từ tạ: “Biết một chút sự thần kỳ ấy, người xưa cho là khó; mới quen mà thổ lộ chân thành, người nay cho là khó. Nay anh một lúc làm được 2 việc khó, có thể nói là ‘đức hạnh mới thơm’. (Kinh) Thi chẳng nói đó sao: ‘Cất mãi trong lòng, ngày nào quên được.’” [QT 36] rồi nói: “Sang năm sẽ gặp lại.” (ý muốn tiễn khách) [TT 33]

Nhân dịp Lộ được nghỉ, Bùi Huy hỏi về Hà Yến, Lộ đánh giá: “Tài của ông ấy như nước trong bồn chậu, thấy được thì trong, còn không thấy thì đục. Dù hiểu biết rộng, mà không chuyên tâm, thì chẳng thành tài. Muốn lấy nước trong bồn chậu, tạo nên hình của tòa núi, thì không thể làm được, bởi vậy dùng trí tuệ để mê hoặc. Hễ nói về Lão, Trang thì khéo mà nhiều văn vẻ, nói về nghĩa cơ bản của Dịch thì đẹp mà nhiều dối trá; văn vẻ thì đạo hão, dối trá thì ý rỗng; gọi tài cao thì nông cạn mà khô kiệt, gọi tài vừa thì tản mạn mà đơn lẻ, Lộ cho là tài kém cỏi vậy.” Bùi Huy đồng tình. [QT 37]

Nghiệp huyện Điển nông hiệu úy Thạch Bao (cha của Thạch Sùng) hỏi Lộ rằng: “Nghe nói đồng hương của anh là Trạch Văn Diệu biết ẩn thân, chuyện ấy đáng tin hay không?” Lộ nói: “Đây chỉ là số của âm dương che dấu, ví được số ấy, thời bốn Nhạc có thể giấu, sông biển có thể trốn. Huống hồ thân hình 7 thước, dạo trong sự thay đổi, giãn mây mù để náu thân, bày Kim – Thủy để xóa vết, pháp thuật đủ số thì tính toán xong, không đáng gọi là khó.” Bao nói: “Muốn nghe sự diệu kỳ ấy, anh hãy bàn về thuật số của nó đi.” Lộ nói: “Ôi vật chẳng tinh hoa không phải thần linh, số chẳng diệu kỳ không phải pháp thuật, nên tinh hoa ấy là sự kết hợp của thần linh, diệu kỳ ấy là sự gặp gỡ của trí tuệ, kết hợp những thứ tỉ mỉ, có thể hiểu được thì hiểu, khó lòng nói ra thành lời. Thế nên Lỗ Ban không thể nói về tay mình, Li Chu không thể nói về mắt mình. Cái khó của việc không nói, Khổng tử nói rằng ‘sách không hết lời’, là sự tinh tế của lời đấy, ‘lời không hết ý’, là cái mầu nhiệm của ý đấy, ấy đều là bình luận về thần và diệu đấy. Xin lấy ví dụ để chứng tỏ. Ôi mặt trời lên cao, vần quanh muôn dặm, chẳng gì không rọi, đến khi lặn rồi, chỉ còn là tia sáng của hòn than nên không thể nhìn rõ gì nữa. Ngày mười lăm, ánh trăng trong vắt soi đêm, có thể nhìn thấy chỗ xa, đến lúc ban ngày thì sáng chẳng bằng gương. Nay trốn mặt trời, mặt trăng ấy ắt là số của âm dương, số của âm dương thông suốt muôn loài, chim thú còn thay đổi, huống hồ con người! Ôi được số ấy diệu, được thần ấy linh, không những người sống có chứng cứ, người chết cũng có điềm báo. Cho nên Đỗ Bá mặc áo mũ đỏ mà hiện hồn, Bành Sinh mượn thân thể heo mà hiện hình. Ấy nên người sống có thể ra cũng có thể vào, người chết có thể hiện cũng có thể nấp, đây là tinh khí của vật thể, hóa làm du hồn, người và quỷ cảm ứng lẫn nhau, số khiến cho như thế đấy.” Bao nói: “Tôi thấy lý sự về âm dương, không ai bằng anh, anh sao không ẩn thân?” Lộ nói: “Ôi chim trên không trung, yêu vẻ thanh cao, không muốn làm cá ở Giang, Hán; cá ở ao vực, yêu sự ướt át, không đổi làm chim cưỡi trên gió; do tính chất khác mà số phận không giống đấy. Kẻ hèn muốn tự sửa mình để hiểu rõ đạo lý, giữ thẳng mình để gần lẽ phải, thấy số không cho là khác, thấy thuật không cho là lạ, sớm tối nghiên cứu, chăm chăm ôn việc cũ, còn tìm bí ẩn, làm việc lạ, chưa nhàn rỗi để nghĩ đến.” [QT 38]

Bình Nguyên thái thú Lưu Bân muốn chú giải kinh Dịch, Lộ nói: “Lộ cho rằng cái kíp của việc chú giải kinh Dịch là kíp ở Thủy – Hỏa; tai nạn Thủy – Hỏa có kết quả tức thì, trong đục của Dịch lại kéo dài muôn đời, chẳng thể không trước thì ổn định tâm thần rồi sau đó cúi đầu suy nghĩ. Từ xưa đến nay, lắng nghe và lựa chọn lời bàn của thánh nhân, chưa có một phần của Dịch, Dịch làm sao có thể chú giải! Lộ không hiểu được thánh nhân vào đời xưa, làm sao phân biệt ngôi của Càn ở tây bắc, ngôi của Khôn ở tây nam. Ôi càn – khôn ấy là tượng của trời – đất, nhưng trời – đất lớn nhất, là vua – cha của thần linh, bụng chứa muôn vật, sanh sôi không đầu, sao đặt yên ổn 2 ngôi cùng 6 quẻ ngang hàng? Tượng thoán của Càn nói: ‘Đại tai càn nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thống thiên.’ Ôi dòng (thống) ấy, là giống (thuộc) vậy, sao còn có ngôi khác vậy?” Bân nương theo các đạo lý trong Hệ từ truyện của kinh Dịch để chú giải, nhưng không nắm được yếu nghĩa. Lộ nhất nhất chỉ ra vấn đề, chỗ nào cũng phân tích đến cùng. Lộ nói: “Ôi Càn – Khôn ấy, là tổ tông của Dịch, nguồn gốc của thay đổi, nay minh phủ bàn trong đục mà có nghi ngờ, nghi ngờ thì không có thần linh, sợ chẳng phù hợp để chú Dịch đấy.” Lộ do vậy mà bàn về đạo của Bát quái và tinh hoa của hào – tượng, mở rộng đề tài, mọi thứ trở nên liên quan đến nhau. Bân thừa nhận là việc này quá khó, đành từ bỏ. Bân lại muốn theo Lộ học Xạ phúc, Lộ nói: “Nay minh phủ đã bị hư nhược tinh thần vì việc chú Dịch, thì nên dứt suy nghĩ ở việc bói cỏ thi. Bói cỏ là thuật số rõ ràng của trời đất, khế ước tối tăm của âm dương, cỏ thi đối với đạo là định ra lành gở của thiên hạ, sử dụng đối với thuật là thu lấy vụn vặt của thiên hạ. Nhỏ mọn, có thể nói là Dịch vậy.” [QT 39] Lưu Bân lại nói: “Đây là nha môn của quận, liên tiếp có chuyện xấu, khiến người ta sợ hãi, tại sao thế?” Lộ nói: “Quận này sở dĩ tên Bình Nguyên, bởi vốn có đồng, núi không có gỗ đá, đều là đất cả; ngậm Âm không thể nhả mây, ngậm Dương không thể đẩy gió, âm dương dẫu yếu, cũng có chút thần; chút thần không chân thực, tụ nhiều gian ác, theo loài tìm nhau, võng lượng nên bầy. Có lẽ nhân cuối đời Hán chiến tranh loạn lạc, thây phơi máu chảy, vấy bẩn núi gò, hồn mạnh cảm nhau, thay đổi không chừng nên nhân lúc chiều tối, có nhiều hình thù quái dị vậy. Xưa Hạ Vũ bày văn minh, không hãi lạ rồng vàng, Chu Vũ (vương) tin thời cơ, không ngờ vực gió mạnh, nay minh phủ đạo đức cao vời, thần không sợ ma, tự được trời giúp, chẳng gì không lợi, xin giữ phúc lành để sáng ân sủng vậy.” [TT 34] [QT 40] Bân cho là phải, lại hỏi: “Dịch nói ‘cương kiện đốc thật, huy quang nhật tân’, ấy là giống nhau hay không?” Lộ đáp: “Tên không giống nhau, sớm mai là huy, giữa trưa là quang.” [QT 41]

Thanh Hà huyện lệnh Từ Quý Long cùng Lộ bàn luận về “rồng động thời mây Cảnh (mây lành) dậy, cọp gầm thời gió Cốc (gió đông) đến”, cho rằng sao Hỏa là rồng, sao Sâm là cọp, Hỏa hiện thì mây ứng, Sâm hiện thì gió đến, đây là cảm hóa của âm dương, không phải sự sắp đặt của rồng, cọp. Lộ nói: “Ôi bàn luận nên trước xét cái gốc, rồi sau tìm cái lý, lý mất thì then lệch, then lệch thì chuyên chủ vinh nhục. Nếu sao Sâm làm cọp, thì gió Cốc là gió của sương rét, gió của sương rét không có tên gió đông. Vậy nên lấy rồng là sao Dương, ngầm lấy làm Âm, u hồn thông với trời, khí giao hòa cảm động thần linh, hai vật phù hợp với nhau, nên có thể nổi mây. Ôi cọp ấy, sao Âm mà ở chỗ Dương, tựa cây gầm dài, hoạt động ở rừng nơi phương Tốn (đông nam), hai khí cảm động lẫn nhau, nên có thể vần gió. Cứ như nam châm hút được sắt, không thể hiện sự thần kỳ mà là loài kim tự tìm đến, có chứng cứ là chúng đã cảm ứng lẫn nhau. Huống hồ rồng có sự chuyển đổi giữa lặn và bay, cọp có sự thay đổi về văn minh, vời mây gọi gió, sao phải nghi ngờ?” Quý Long nói: “Ôi rồng nằm vực sâu, chẳng qua ở dưới đáy giếng, hổ gầm thê thiết, chẳng qua trong vòng trăm bước, hình thái – khí thế yếu ớt, thông suốt được chỗ gần, sao có thể giăng mây lành rồi ruổi gió đông?” Lộ nói: “Anh không thấy mồi Âm Dương nằm trong nắm tay, hình dáng không ra khỏi bàn tay, mà có thể trên dẫn lửa của Thái Dương, dưới dẫn nước của Thái Âm, trong lúc hít vào thở ra, hơi nước mênh mang. Ví như tinh khí cảm ứng lẫn nhau, thiên tượng ứng với 2 mồi (Âm Dương); ví như không cảm thông lẫn nhau, thì 2 phụ nữ sống cùng nhà, thái độ sẽ không hòa hợp. Đạo của tự nhiên, không có xa gần.” Quý Long nói: “Đời gặp việc chiến tranh, gây cảm ứng khiến gà, trĩ gáy trước, tại sao thế? Lại có kẻ bói toán, chỉ nhờ gà, trĩ vào giờ Tỵ (chi Tỵ tương ứng với rắn)?” Lộ nói: “Kẻ quyền quý có việc, gây cảm ứng với trời, trời đây là mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Chiến tranh khiến dân lo, gây cảm ứng với vật, vật đây là chim thú ở núi rừng. Ôi con gà là muông của quẻ Đoái, hành Kim là tinh hoa của nhà binh, chim trĩ là loài chim của quẻ Ly, loài thú là thần linh của võ lực, nên sao Thái Bạch tỏa sáng thì gà gáy, sao Huỳnh Hoặc di chuyển thì trĩ sợ, bọn chúng đều cảm ứng với số mà hành động. Còn phép thuật của nhà binh, bày ở lục giáp, lục giáp đổi dời, bói toán không chừng. Cứ lấy việc quan tài vua Tấn có tiếng bò rống, trống đá thời Hồng Gia kêu ắt có chiến tranh, thì không chỉ dựa vào gà, trĩ vậy.” Quý Long nói: “Lỗ Chiêu công năm thứ 8, có đá nói chuyện ở nước Tấn, Sư Khoáng cho rằng làm việc không đúng lúc, khiến lòng dân oán hận, mới có vật không nói được mà nói được, về lý có hợp hay không?” Lộ nói: “Tấn Bình công quá mức xa xỉ, chuộng sửa cung thất, chặt đẵn cây rừng, tàn phá vàng đá, sức dân đã hết, oán đến núi chằm, thần đau người cảm, 2 tinh đều làm, vàng đá hòa hơi, thì quẻ Đoái làm miệng lưỡi, con yêu của miệng lưỡi, động vào đá thiêng. Truyền rằng khinh trăm họ, sửa thành quách, thời loài Kim không tuân lẽ thường, là như thế này đấy.” Quý Long thán phục, giữ Lộ ở lại vài ngày. Lộ đoán việc săn đã nghiệm, Quý Long nói: “Anh dẫu thần kỳ, nhưng tôi không giấu nhiều vật đấy, sao có thể biết cả được?” Lộ nói: “Tôi cùng trời đất dò xét thần linh, dùng cỏ thi và mai rùa để giao tiếp với họ, ôm lấy mặt trời, mặt trăng mà dạo chơi chốn mịt mù, tột cùng thay đổi mà nhìn ngắm thứ chưa xảy đến, làm sao vật ở gần có thể bưng tai mắt?” Quý Long cả cười, “Anh đã không khiêm tốn, còn nhớ lần bị làm khó gần đây chứ?” (nhắc đến Gia Cát Nguyên?) Lộ nói: “Anh còn chưa biết thế nào là lời khiêm tốn, sao có thể bàn luận? Ôi trời và đất là quẻ của Càn – Khôn, cỏ (thi) và mai (rùa) là số của bói toán, (mặt) trời và (mặt) trăng là tượng của Ly – Khảm, sự thay đổi là hào của âm dương, chốn mịt mù là nguồn của việc hóa (làm) thần, thứ chưa đến là đầu (tiên) của cõi u ám, đây đều là giường mối của Chu Dịch, gì mà kẻ hèn không khiêm tốn?” [QT 42]

Lộ cho biết đêm nay sẽ mưa, Nghê thái thú chưa tin. Lộ nói: “Ngày 16 Nhâm Tý, là dịp Trực mãn, trong sao Tất đã có hơi nước, hơi nước phát ra, động vào Mão – Thìn, thế này ắt sẽ ứng nghiệm. Lại thêm trời sắp truyền hịch gọi năm sao, tuyên bố thẻ sao, bảo xuống sao Tỉnh, thông báo sao Cơ, sai triệu Lôi công, Điện mẫu, Phong bá, Vũ sư; các núi phát ra tiếng, những sông xói tinh hoa; Thiên hà rủ phúc lộc, thuồng luồng sinh linh tính; điện đỏ chằng chịt, nuốt nhả cõi mịt mù; tiếng sấm ù ù, hít thở linh tính mưa; gió đông thư thái, mọi nơi như một; thời gian ngắn ngủi, mọi vật nên hình. Trời có kỳ hạn, đạo có tự nhiên, không khó khăn gì.” Nghê nói: “Anh nói hay nhưng ít đáng tin, khiến tôi lấy làm băn khoăn.” Vì thế Nghê giữ Lộ ở lại, cho mời phủ thừa cùng Thanh Hà huyện lệnh (Từ Quý Long?). Nghê nói rằng nếu đêm nay trời mưa thì sẽ sửa sai bằng cách mời ăn 200 cân thịt nghé, nếu không mưa thì sẽ giữ lại 10 ngày. Lộ nói: “Nghĩ về phí tổn đi.” Đến lúc trời về chiều, vẫn không có chút mây, mọi người đều cười Lộ. Lộ nói: “Trên cây có gió tây thổi nhẹ, giữa cây có chim Âm hòa giọng. Lại thêm gió đông bắc nổi, nhiều chim cùng liệng, sẽ ứng nghiệm thôi.” Chốc lát, quả có gió đông bắc và chim hót. Mặt trời chưa lặn, đông nam có mây trên núi như tòa lầu trỗi dậy. Sau khi hoàng hôn, tiếng sấm vang trời. Đến giữa canh một, trăng sao đều mất, gió mây đều thịnh, khí trời từ 4 phương tụ họp, mưa lớn như thác đổ. Nghê cười nói với Lộ rằng: “Nói bừa mà trúng đấy, chẳng phải thần kỳ gì đâu.” Lộ nói: “Nói bừa mà trúng với ý trời, chẳng phải là khéo ru!” [QT 43]

Hoa Dị cho biết Lộ bói không nhất định trúng, mười được bảy, tám. Dị hỏi lý do, Lộ đáp: “Về lý thì không sai nhầm, nhưng người đến xin bói ngờ rằng không nói đầy đủ sự thật, nên mới như vậy!’ [BTC 9]

Quản Thần từng muốn theo Lộ học nghề bói mai rùa và xem thiên văn, Lộ nói: “Anh không thể học được đâu. Ôi bói mai rùa chẳng phải tinh hoa nhất thì không thể biết số của nó, chẳng phải kỳ diệu nhất thì không thể thấy đạo của nó; cứ học Hiếu kinh, Thi, Luận (ngữ) thì đủ làm tam công, không cần khôn vặt như thế.” Thần bèn không học nữa. Con em họ Quản cũng chẳng ai có tài năng để Lộ truyền lại thuật pháp của mình. [QT 44]

Đánh giá

Quách Ân mỗi khi nghe Lộ nói, chưa từng không tỏ ra cảm khái, nói rằng: “Nghe được lời bàn rất đúng của anh, khiến tôi quên đi bệnh tật, đêm ngày đuổi theo mà không kịp, sao lại xa thế!” [QT 45] Liệt Nhân huyện lệnh Bảo Tử Xuân thích kinh Dịch, hay bói toán, nghe được việc vợ của Lưu Phụng Lâm, cầu Lộ giải thích. Sau khi nghe Lộ nói xong, Tử Xuân tự nhận thì ra mình chẳng hiểu gì về kinh Dịch. [QT 46]

Lộ đến thăm An Bình thái thú Vương Cơ, cùng ông ta bàn về kinh Dịch. Sau vài ngày, Cơ rất lấy làm vui vẻ, nói với Lộ rằng: “Đã nghe anh tiếng giỏi bói, muốn cùng anh đàm đạo. Anh có dị tài ở đời, đáng được ghi vào tre lụa đấy.”[QT 47] Sau chuyện ở nhà Tín Đô lệnh, Cơ muốn theo Lộ học kinh Dịch. Dù Lộ đã giảng giải tường tận, tỉ mỉ, Cơ không thể hiểu nổi, nói: “Mới nghe anh nói, cứ ngỡ có thể nắm được, cuối cùng đều là rối rắm. Đây là nhờ trời cho, chứ không phải tự người biết được.” Rồi từ bỏ. [QT 48]

Vương Kinh mỗi khi bàn về Lộ, cho rằng ông nắm được tinh hoa của mây rồng, biết giữ gìn bản thân và giao thiệp quỷ thần, không chỉ có tài tổ hợp mà thôi. [QT 49]

Lưu Bân giữ Lộ ở lại với mình 5 ngày, không lo công việc, chỉ cùng ông thanh đàm. Bân nói: “Mấy lần cùng Hà Yến bàn Dịch cùng đạo của Lão, Trang, đến mức tinh thần trôi xa, đều hóa ra đối đáp theo lệ, rõ ràng như Kim – Thủy, sum suê như núi rừng, trái với khi ở cùng anh.” [QT 50]

Từ Quý Long che đậy 13 món đồ, mà Lộ đoán đúng cả, bèn than rằng: “Bói thì gọi là thánh, tính thì gọi là minh, há như thế này ru!” (ca ngợi Lộ thánh minh) [QT 51]

Quản Thần cho biết Lộ sau khi đến kinh thành, đạt được tiếng tăm và quyền thế to lớn. Kẻ quyền quý chẳng ai không muốn cùng Lộ kết giao, khách khứa như mây, nhưng Lộ không kể sang hèn, đều lấy lễ mà tiếp đãi, cho rằng nếu không yểu mạng, thành tựu của Lộ chẳng thể lường được. [QT 52] Nhờ vậy, Lộ giao thiệp với các danh sĩ đương thời là Bùi Huy, Hà Yến, Đặng Dương và anh em Lưu Thực, Lưu Trí, rất lấy làm vinh dự, [QT 53] nhưng Bùi Tùng Chi phản bác trường hợp của anh em họ Lưu, nhận định họ là danh Nho theo lối chính thống, không quan tâm đến Huyền học. [BTC 10] Quản Thần so sánh việc Lộ mất trong an lành thì hơn hẳn cái chết khổ sở của Kinh Phòng đời Tây Hán, ở phương diện thiên văn thì không kém Cam Công, Thạch Thân Phu, xạ phúc thì không kém Đông Phương Sóc, xem tướng thì không kém Hứa Phụ, Đường Cử. [QT 54] Quản Thần kể rằng quan thứ sử họ Mạnh của Kinh Châu (?) từng đòi Lộ giải thích phương pháp đoán vật của Đông Phương Sóc, nghe xong thì thở dài mà nói: “Tôi nghe anh bàn, tinh thần nhảy dựng, sợ muốn bay mất, sao mà sâu xa đến như vậy!” [QT 55]

Nghi vấn về năm sanh

Bùi Tùng Chi chỉ ra khác biệt ở Tam quốc chí và Biệt truyện: Trần Thọ chép Lộ mất năm Chánh Nguyên thứ 3 (256), hưởng thọ 48 tuổi, tức ông phải sanh vào năm Kỷ Sửu, hiệu Kiến An thứ 14 (209); Quản Thần chép lời của Lộ rằng “bản mệnh ở Dần”, tức ông phải sanh vào năm Canh Dần, hiệu Kiến An thứ 15 (210). Ngoài ra, năm Chánh Thủy thứ 9 (248), Lộ được cử Tú tài, Biệt truyện kể rằng ông khi ấy 36 tuổi, là lầm vậy. [BTC 11]

Trước tác

Tác phẩm của Lộ để lại không nhiều. Quản Thần kể rằng sau khi ông nhận quan chức thì sống một mình ở nha môn, không đem theo con em để hầu hạ. Người đời ngỡ rằng Lộ có sách quý nên mới thành tài, vào lúc ông mất, nhân lúc bên cạnh không có thân nhân, thừa cơ trộm đi rất nhiều, đến nỗi hàng ngàn chỉ còn hơn 30 quyển. [QT 56]

Đời sau ghi nhận một số tác phẩm của Lộ như sau: Chu Dịch lâm 4 quyển, Điểu tình nghịch chiêm 1 quyển, [CDT 1] [TDT 1] Chu Dịch thông linh quyết 2 quyển, Chu Dịch thông linh yếu quyết 1 quyển. [TU 1] Ngày nay đều không còn.

Thành ngữ liên quan

  • Lão sanh thường đàm (老生常谈) ý nói những lời lẽ lặp lại, cũ kỹ và nhàm tai.
  • Yếu ngôn bất phiền (要言不烦), ý nói chuyện quan trọng thì đừng nói năng rườm rà.
  • Hổ khiếu phong sanh, long đằng vân khởi (虎啸风生,龙腾云起), ý nói anh hùng gặp thời mà xuất hiện, đạt được ảnh hưởng lớn lao đối với xã hội.

Gia đình

  • Em trai Quản Quý Nho.
  • Em trai Quản Thần, tự nhận được Lưu Thực khen có tài của Hiếu liêm, [BTC 12] được làm đến Châu chủ bộ, Bộ tòng sự. Đầu những năm Thái Khang (280 – 289), mất. [BTC 13] Thần là tác giả của Quản Lộ biệt truyện. [CDT 2] [TDT 2] [TU 2]

Trong văn hóa

Lộ là nhân vật phụ trong Tam quốc diễn nghĩa, xuất hiện ở hồi 69 và hồi 106.

Hồi 69, Lộ được Hứa Chi tiến cử với Tào Tháo. Lời kể của Hứa Chi có nội dung được tổng hợp từ Biệt truyện và phần khảo xét của Bùi Tùng Chi. Sau khi gặp Tào Tháo, Lộ bói trúng 3 việc: Hạ Hầu Uyên tử trận, Lỗ Túc bệnh mất và hỏa hoạn ở Hứa Đô. [LQT 1] Câu chuyện này hoàn toàn được hư cấu vì khi đó Lộ mới lên 8 tuổi.

Hồi 106, Lộ trò chuyện với Hà Yến, Đặng Dương, dự báo họ sắp gặp tai vạ. Quả nhiên như vậy. [LQT 2]

Khảo chứng

Sử liệu chính

Tam Quốc chí quyển 29, Ngụy thư 29, Phương kỹ truyện: Quản Lộ

  • Trần Thọ trước tác – Tam quốc chí, tài liệu đã dẫn:
  • Bùi Tùng Chi chú Tam Quốc chí, tlđd, dẫn Quản Thần – Quản Lộ biệt truyện:
  • Bùi Tùng Chi khảo xét:

Tài liệu khác

Ghi chú