Quốc văn giáo khoa thư

Quốc văn giáo khoa thư (國文教科書, Manuels de lecture en quoc-van[1]) là nhan đề bộ ba tùng thư dạy quốc ngữ cho cấp sơ học yếu lược[2] (Primaire Élémentaire) do Nha học chính Đông Pháp ấn hành năm 1926[3].

Quốc-văn giáo-khoa thư
Langue indigène
Thông tin sách
Tác giảTrần Trọng Kim
Nguyễn Văn Ngọc
Đặng Đình Phúc
Đỗ Thận
Minh họaNam Sơn Nguyễn Vạn Thọ
Quốc gia Đông Pháp
Ngôn ngữViệt văn
Chủ đềGiảng học
Thể loạiTùng thư
Nhà xuất bảnNha Học-chính Đông-Pháp
Ngày phát hành1926

Lịch sử

Sau Đệ Nhất thế chiến, chính phủ Đông Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa thứ nhì trong bối cảnh khoa cử đã kết thúc từ lâu, mà các thế hệ hậu sinh tiếp thu Hán học ngày càng kém, điều này gây tổn hại cho sự khai trí chấn khí và cả trị an chung. Vì thế, năm 1924, cơ quan trực thuộc Bộ Quốc-dân Giáo-dục là Nha Học-chính Đông-Pháp (Direction générale de l'instruction publique de l'Indochine) quyết định ủy thác 4 học giả có bằng thông ngôn Pháp là các vị Lệ Thần Trần Trọng Kim, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận biên soạn hai bộ Quốc văn giáo khoa thưLuân lý giáo khoa thư, gọi chung Việt-nam tiểu-học tùng thư (越南小學叢書)[4]. Việc này nhằm chuẩn hóa công tác giảng học, đồng thời cả giáo sư và học sinh dễ tiếp cận tân văn hóa vận động.

Nhìn chung, Quốc văn giáo khoa thư có vị thế kế tục tứ thư ngũ kinh trong việc tải đạo và trị nhân, mà đồng thời, hướng tới đào tạo thế hệ thanh niên bắt nhịp được xu thế chung thay vì chỉ thụ động tiếp nhận cái đã lỗi thời, thông qua giáo huấn cách trí thể mĩ. Ngoài ra, đối tượng áp dụng của ấn phẩm này là học trò thuộc sắc tộc Kinh trên lĩnh thổ Liên bang Đông Dương, không áp dụng cưỡng bách cho sắc tộc khác.

Nội dung

Quốc văn giáo khoa thư hầu như được soạn bằng quốc văn, hãn hữu lắm mới xen chữ HánPháp ngữ để giảng kinh nghĩa. Phần đầu dạy học trò đánh vần bảng chữ cái bằng cách liên tưởng sự vật, phần sau là bài đọc gồm những áng văn hoặc cố sự tiêu biểu, dưới mỗi bài học là phần giảng nghĩa chữ khó và bài tập. Nguyên bản sách này do được in thô nhằm hạ giá thành xuống thấp nhất để học trò dễ mua, cho nên chứa rất nhiều lỗi chính tả. Mỗi trang được tường bày súc tích và từ ghép vẫn dùng dấu nối để người có trình độ tiếp thu kém nhất cũng tiện học.

  • Quyển thượng (lớp đệ ngũ - đồng ấu, Cours Enfantin): 34 bài đầu dạy phân biệt bảng chữ cái và đánh vần, 55 bài sau là tập đọc vỡ lòng.
  • Quyển trung (lớp đệ tứ - dự bị, Cours Préparatoire): 120 bài tập đọc.
  • Quyển hạ (lớp đệ tam - sơ đẳng, Cours Elémentaire): 84 bài tập đọc.
Chữ
[1]
ĐọcChữ
[2]
ĐọcChữ
[3]
ĐọcChữ
[4]
ĐọcChữ
[5]
ĐọcChữ
[6]
ĐọcChữ
[7]
ĐọcChữ
[8]
ĐọcChữ
[9]
Đọc
I
/i:/
U
/u:/
Ư
/ư:/
O
/o:/
Ô
/ô:/
A
/a:/
Ă
/ach:/
Â
/ơ:/
E
/e:/
Ê
/ê:/
Y
/i:gơ-rêch/
B
/bê:/
L
/e:lơ/
T
/tê:/
V
/vê:/
H
/hat:/
X
/ich:/
D
/đê:/
N
/en:/
M
/em:/
Đ
/đơ:/
R
/e:rơ/
S
/et:/
C
/xê:/
K
/ca:/
G
/dzi:/
P
/pê:/

Văn hóa

Sự kiện Quốc văn giáo khoa thư ra đời đáng coi là đặt mốc xác lập nền thi cử mới thay khoa cử đã lỗi thời từ lâu. Quốc văn giáo khoa thư chính thức kết thúc sứ mạng lịch sử vào năm 1948, khi hệ thống giáo dục Pháp thuộc cáo chung. Tuy nhiên, trong nhiều thập niên sau Quốc văn giáo khoa thư liên tục được ấn hành làm tài liệu tham khảo cho học sinh - sinh viên, nội dung và cấu trúc trong ấn phẩm này vẫn được nhiều nhóm tác giả giáo khoa thư khác phỏng theo.

  • Sau sự kiện 30 tháng 04 năm 1975, một số nhà in hải ngoại (đặc biệt tại Pháp) tiến hành ấn loát Quốc văn giáo khoa thư làm tài liệu chuyên dụng dạy Việt ngữ cho thế hệ trẻ.
  • Cận tết nguyên đán 2014, dư luận đả kích Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SHB) in tờ lịch có nội dung "sai lịch sử" hồ Hoàn Kiếm khi nói rằng vua Lê cầm kiếm đuổi rùa. Khi được báo giới phỏng vấn, nghiên cứu gia Trần Quang Đức dẫn các sách Sơn cư tạp thuật, Tang thương ngẫu lục, Đại Nam nhất thống chí, Hà thành kim tích khảo để giải thích rằng: Đây chỉ là truyền thuyết chứ không phải lịch sử. Vả chăng, tình tiết "vua Lê trả kiếm" chỉ xuất hiện sớm nhất ở đầu thế kỉ XX trong Quốc văn giáo khoa thư, phỏng một chi tiết trong truyền thuyết Arthur. Trước thế kỉ XX, mọi thư tịch đều nói rằng, vua Lê cầm kiếm đuổi rùa hoặc ném rùa, vì thế nội dung lịch chí ít khớp với cổ thư[5].

Tham khảo

  • Luân lý giáo khoa thư
  • Ấu học khải mông
  • Tứ thư ngũ kinh

Liên kết

Tài liệu

Tư liệu