The Lazy Song

"The Lazy Song" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Bruno Mars nằm trong album phòng thu đầu tay của anh, Doo-Wops & Hooligans (2010). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ ba trích từ album vào ngày 15 tháng 2 năm 2011 bởi Elektra RecordsAtlantic Records. Bài hát được đồng viết lời và sản xuất bởi Mars, Philip Lawrence và Ari Levine dưới nghệ danh chung của họ, The Smeezingtons, bên cạnh sự tham gia đồng viết lời từ K'naan. "The Lazy Song" là một bản reggae kết hợp với những yếu tố từ popska cũng như chịu ảnh hưởng lớn từ phong cách nhạc Hawaii, mang nội dung đề cập đến cảm giác lười biếng của một người trong một ngày, vốn được lấy cảm hứng sau khi những tác giả đi chơi quanh phòng thu và cảm thấy không muốn làm việc, đã thu hút nhiều sự so sánh với một số tác phẩm của Jason Mraz, Peter Andre và Sugar Ray. Ngoài ra, phiên bản đĩa đơn của bài hát còn bao gồm tiếng thổi sáo vốn không được xuất hiện trong phiên bản album, và đề cập đến nhiều giá trị văn hóa như MTV, DVD tập thể dục tại nhà P90X và bài hát năm 2010 của Cali Swag District "Teach Me How to Dougie".

"The Lazy Song"
Đĩa đơn của Bruno Mars
từ album Doo-Wops & Hooligans
Mặt B"Grenade"
Phát hành15 tháng 2 năm 2011 (2011-02-15)
Định dạng
Thể loại
Thời lượng
  • 3:15 (bản album)
  • 3:08 (bản đĩa đơn)
Hãng đĩa
Sáng tác
Sản xuấtThe Smeezingtons
Thứ tự đĩa đơn của Bruno Mars
"Grenade"
(2010)
"The Lazy Song"
(2011)
"Talking to the Moon"
(2011)
Video âm nhạc
"The Lazy Song" trên YouTube

Sau khi phát hành, "The Lazy Song" nhận được những phản ứng đa phần là tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu mang âm hưởng raegae và gọi đây là một điểm nhấn nổi bật từ Doo-Wops & Hooligans. Bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại một số lễ trao giải lớn, bao gồm đề cử tại giải Sự lựa chọn của Giới trẻ năm 2011 cho Lựa chọn Bài hát Mùa hè. "The Lazy Song" cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Đan Mạch, Hungary và Vương quốc Anh, và lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở nhiều thị trường lớn như Áo, Canada, Ireland, New Zealand và Ba Lan. Tại Hoa Kỳ, bài hát đạt vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong bốn tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn thứ năm của Mars lọt vào top 10 cũng như tiêu thụ được hơn 3.5 triệu bản tại đây. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 8.2 triệu bản trên toàn cầu, trở thành đĩa đơn bán chạy thứ mười của năm 2011 cũng như là một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.[4]

Hai video ca nhạc khác nhau đã được thực hiện cho "The Lazy Song". Video đầu tiên được đồng đạo diễn bởi Mars và Cameron Duddy, trong đó Mars vui vẻ với năm vũ công đeo mặt nạ khỉ thuộc nhóm nhảy Poreotics ở một phòng ngủ và đã gặt hái một đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2011 ở hạng mục Video có vũ đạo xuất sắc nhất. Một phiên bản khác của bài hát do Nez làm đạo diễn, và bao gồm những hoạt động hằng ngày một cách thụ động của một người đàn ông (do Leonard Nimoy thủ vai), bên cạnh sự xuất hiện đặc biệt từ Mars, Lawrence và William Shatner. Để quảng bá cho "The Lazy Song", nam ca sĩ đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm American Idol, Today, X Factor FranceNBA All-Star Tip Off Pre-Show năm 2011, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn trong sự nghiệp của anh. Kể từ khi phát hành, bài hát đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ khác nhau, như Bart Baker, Cody Simpson, Joseph Vincent, Megan Nicole và chính tác giả của nó K'naan.

Danh sách bài hát

Tải kĩ thuật số[5]
  1. "The Lazy Song" (bản đĩa đơn) – 3:08
Đĩa CD tại Anh quốc[6]
  1. "The Lazy Song" (bản album) – 3:15
  2. "Grenade" (The Hooligans phối lại) – 3:30

Thành phần thực hiện

Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Doo-Wops & Hooligans, Elektra Records.[7]

Xây dựng và phối khí
  • Xây dựng tại Levcon Studios ở Los Angeles, California
  • Phối khí tại Larrabee Sound Studios ở Hollywood, California
Thành phần

Xếp hạng

Xếp hạng cuối năm

Bảng xếp hạng (2011)Vị trí
Australia (ARIA)[38]14
Austria (Ö3 Austria Top 40)[39]45
Belgium (Ultratop 50 Flanders)[40]17
Belgium (Ultratop 40 Wallonia)[41]60
Canada (Canadian Hot 100)[42]17
Denmark (Tracklisten)[43]24
France (SNEP)[44]57
Germany (Official German Charts)[45]51
Hungary (Rádiós Top 40)[46]59
Israel (Media Forest)[47]25
Italy (FIMI)[48]65
Netherlands (Dutch Top 40)[49]21
Netherlands (Single Top 100)[50]26
New Zealand (Recorded Music NZ)[51]11
South Korea (Gaon International Singles)[52]141
Sweden (Sverigetopplistan)[53]65
Switzerland (Schweizer Hitparade)[54]37
UK Singles (Official Charts Company)[55]15
US Billboard Hot 100[56]26
US Adult Contemporary (Billboard)[57]36
US Adult Top 40 (Billboard)[58]19
US Pop Songs (Billboard)[59]26
Worldwide (IPFI)[60]10
Bảng xếp hạng (2012)Vị trí
South Korea (Gaon International Singles)[61]91
129

Chứng nhận

Quốc giaChứng nhậnDoanh số
Úc (ARIA)[62]5× Bạch kim350.000
Áo (IFPI Áo)[63]Vàng15.000*
Bỉ (BEA)[64]Vàng15.000*
Canada (Music Canada)[65]4× Bạch kim320,000^
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[66]Bạch kim30,000^
Đức (BVMI)[67]Vàng250.000^
Ý (FIMI)[68]Bạch kim30.000*
México (AMPROFON)[69]Vàng30.000*
New Zealand (RMNZ)[70]Bạch kim15.000*
Hàn Quốc (Gaon ChartNone508,592[71]
Thụy Sĩ (IFPI)[72]Bạch kim30.000^
Anh Quốc (BPI)[74]Bạch kim747,000[73]
Hoa Kỳ (RIAA)[76]3× Bạch kim3,508,000[75]
Streaming
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[66]Bạch kim1.300.000^

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

Quốc giaNgàyĐịnh dạngHãngNguồn
Hoa Kỳ15 tháng 2 năm 2011Mainstream radio[77]
New Zealand18 tháng 2 năm 2011Tải kĩ thuật sốElektra[78]
Vương quốc Anh8 tháng 5 năm 2011Tải kĩ thuật số[2]
9 tháng 5 năm 2011CDWarner[79]
Đức27 tháng 5 năm 2011Elektra[80]
Áo
Thụy Sĩ

Xem thêm

Tham khảo