Tiếng Triều Tiên cổ

Tiếng Triều Tiên cổ là ngôn ngữ lịch sử của tiếng Triều Tiên có niên đại từ Tam Quốc đến nửa sau của Tân La Thống nhất,[1] khoảng trong thế kỉ thứ 4 đến thế kỉ thứ 10. Nó khác với ngôn ngữ Triều Tiên nguyên thủy (원시 한국어), ngôn ngữ cổ xưa được dựng lại từ so sánh với phương ngữ tiếng Triều Tiên. Một số nhà ngôn ngữ học kiến nghị rằng tiếng Triều Tiên cổ có thể là một phần của hệ ngôn ngữ Altai, mặc dù tuyên bố này gây tranh cãi.[2]

Tiếng Triều Tiên cổ
Khu vựcTriều Tiên
Phân loạiTiếng Triều Tiên
Hệ chữ viếtHanja
Mã ngôn ngữ
ISO 639-3oko
Tiếng Triều Tiên cổ
Hangul
고대 국어
Hanja
古代國語
Romaja quốc ngữGodae gugeo
McCune–ReischauerKodae kugŏ
Hán-ViệtCổ đại Quốc ngữ

Phạm vi của tiếng Triều Tiên cổ là không rõ ràng. Nó thường được chấp nhận bao gồm cả tiếng Silla, được cho là tổ tiên trực tiếp của tiếng Triều Tiên trung đại và hiện đại, và cũng có thể bao gồm tiếng Phù Dư, Cao Câu Ly, và Bách Tế. Như vậy, tiếng Triều Tiên cổ là một đại ngôn ngữ, không phải là một ngôn ngữ riêng rẻ. (Xem Ngôn ngữ Phù Dư, Tiếng Triều Tiên.)[3]

Tham khảo

Đọc thêm

  1. Kim, Mu-rim (김무림) (2004). 국어의 역사 (Gugeo-ui yeoksa, Lịch sử của ngôn ngữ Triều Tiên). Seoul: Hankook Munhwasa. ISBN 89-5726-185-0.

Liên kết ngoài