Wikipedia:Bài viết chọn lọc/2019

2005200620072008200920102011201220132014
2015201620172018201920202021202220232024
Bài viết chọn lọc năm 2019
Tháng
123456789101112

Tuần 1

Dàn diễn viên và ê-kíp làm phim Kỵ sĩ bóng đêm trong một buổi ra mắt châu Âu ở Luân Đôn. Từ trái qua phải: Đạo diễn Christopher Nolan, hai nhà sản xuất Emma Thomas và Charles Roven, các diễn viên Monique Gabriela Curnen, Michael Caine, Aaron Eckhart, Maggie Gyllenhaal và Christian Bale.

Kỵ sĩ bóng đêm là phim điện ảnh siêu anh hùng năm 2008 do Christopher Nolan đạo diễn kiêm nhà đồng sản xuất và nhà đồng biên kịch. Dựa trên nhân vật truyện tranh Batman của DC Comics, tác phẩm là phần thứ hai trong loạt phim điện ảnh bộ ba The Dark Knight của Nolan cũng như phần tiếp nối của Batman Begins năm 2005. Phim có sự tham gia của dàn diễn viên như Christian Bale, Michael Caine, Heath Ledger, Gary Oldman, Aaron Eckhart, Maggie GyllenhaalMorgan Freeman. Trong Kỵ sĩ bóng đêm, Bruce Wayne / Batman (Bale), James Gordon (Oldman) và công tố viên quận Harvey Dent (Eckhart) tạo thành một liên minh chống tội phạm có tổ chứcThành phố Gotham nhưng bộ ba bị đe dọa bởi một kẻ chủ mưu vô chính phủ có biệt danh Joker (Ledger), khi hắn tìm cách phá hoại ảnh hưởng của Batman và khiến thành phố trở nên hỗn loạn.

Với doanh thu hơn 1 tỷ USD trên toàn cầu, tác phẩm trở thành phim điện ảnh có doanh thu cao nhất năm 2008phim điện ảnh có doanh thu cao thứ 36 mọi thời đại nếu không tính lạm phát (đứng thứ 4 tại thời điểm phát hành); phim còn thiết lập kỷ lục phim điện ảnh có doanh thu mở màn cao nhất với 158 triệu USD và nắm giữ kỷ lục này trong ba năm. Kỵ sĩ bóng đêm đã nhận tám đề cử Oscar, trong đó giành giải biên tập âm thanh xuất sắc nhất và Ledger được trao giải nam diễn viên phụ xuất sắc nhất sau khi qua đời. [ Đọc tiếp ]

Tuần 2

Thiên hà Sombrero theo quang phổ hồng ngoại

Tốc độ ánh sáng trong chân không, ký hiệu là c, là một hằng số vật lý cơ bản quan trọng trong nhiều lĩnh vực vật lý học. Nó có giá trị chính xác bằng 299.792.458 mét trên giây, bởi vì đơn vị độ dài mét được định nghĩa lại dựa theo hằng số này và giây tiêu chuẩn. Theo thuyết tương đối hẹp, c là tốc độ cực đại mà mọi năng lượng, vật chất, và thông tin trong vũ trụ có thể đạt được. Nó là tốc độ cho mọi hạt phi khối lượng liên kết với các trường vật lý (bao gồm bức xạ điện từ như photon ánh sáng) lan truyền trong chân không. Nó cũng là tốc độ truyền của hấp dẫn (như sóng hấp dẫn) được tiên đoán bởi các lý thuyết hiện tại. Những hạt và sóng truyền với vận tốc c không kể chuyển động của nguồn hay của hệ quy chiếu quán tính của người quan sát. Trong thuyết tương đối, c có liên hệ với không gian và thời gian, và do vậy nó xuất hiện trong phương trình nổi tiếng sự tương đương khối lượng-năng lượng E = mc2. Vận tốc của ánh sáng khi nó lan truyền qua vật liệu trong suốt, như thủy tinh hoặc không khí, nhỏ hơn c. Tỉ số giữa c và vận tốc v của ánh sáng truyền qua vật liệu gọi là chỉ số chiết suất n của vật liệu (n = c / v). Trong thực hành hàng ngày, ánh sáng có thể coi là lan truyền "tức thì", nhưng đối với khoảng cách lớn và phép đo rất nhạy, sự hữu hạn của tốc độ ánh sáng có thể nhận biết được. Hiện tượng thời gian trễ này cũng chính là nguyên nhân trong cộng hưởng Schumann. Trong liên lạc truyền tín hiệu thông tin đến các tàu không gian, thời gian mất khoảng từ vài phút đến hàng giờ cho tín hiệu đến được Trái Đất và ngược lại. [ Đọc tiếp ]

Tuần 3

Người đẹp và quái vật là phim điện ảnh hoạt hình mang yếu tố nhạc kịchkỳ ảo lãng mạn của Mỹ năm 1991 do xưởng phim Walt Disney Animation Studios sản xuất và hãng Walt Disney Pictures chịu trách nhiệm phát hành. Tác phẩm là phim điện ảnh hoạt hình thứ 30 của Disney và bộ phim thứ ba phát hành trong thời kì Phục hưng của Disney, dựa trên câu chuyện cổ tích cùng tên của nữ nhà văn người Pháp Jeanne-Marie Leprince de Beaumont và những ý tưởng từ phim điện ảnh cùng tên của Pháp năm 1946 do Jean Cocteau đạo diễn. Nội dung phim kể về mối tình lãng mạn giữa Quái thú (Robby Benson lồng tiếng), chàng hoàng tử bị biến thành một con quái thú gớm ghiếc, còn những người hầu của chàng bị biến thành các vật dụng gia đình—một sự trừng phạt vì sự độc ác và ích kỷ của chàng và Belle (Paige O'Hara lồng tiếng), cô gái trẻ xinh đẹp bị Quái thú giam giữ trong lâu đài của mình. Để có thể trở lại thành người, Quái thú phải học cách yêu Belle và chiếm được tình yêu của nàng, trước khi cánh hoa cuối cùng từ bông hoa hồng phép thuật mà một bà phù thủy gieo lời nguyền lên Quái thú rụng xuống, hoặc Quái thú sẽ vẫn ở trong hình hài này vĩnh viễn. Phim còn có sự tham gia lồng tiếng của Richard White, Jerry Orbach, David Ogden StiersAngela Lansbury.

Tác phẩm gặt hái thành công lớn về doanh thu phòng vé khi thu về 425 triệu USD trên toàn cầu so với kinh phí sản xuất là 25 triệu USD. Bộ phim đã chiến thắng giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất, qua đó trở thành phim hoạt hình đầu tiên chiến thắng hạng mục này. Người đẹp và quái vật cũng là tác phẩm điện ảnh hoạt hình đầu tiên nhận đề cử giải Oscar cho phim hay nhất tại lễ trao giải lần thứ 64, bên cạnh đó phim còn đoạt giải Oscar cho nhạc phim hay nhấtca khúc trong phim hay nhất (cho bài hát chủ đề), đồng thời nhận thêm các đề cử khác cho ca khúc trong phim ("Be Our Guest") hay nhất và hòa âm hay nhất. [ Đọc tiếp ]

Tuần 4

Trận Trân Châu Cảng (hay Chiến dịch Hawaii theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một đòn tấn công quân sự bất ngờ được Hải quân Nhật Bản thực hiện nhằm vào căn cứ hải quân của Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng thuộc tiểu bang Hawaii vào sáng Chủ Nhật, ngày 7 tháng 12 năm 1941, dẫn đến việc Hoa Kỳ sau đó quyết định tham gia vào hoạt động quân sự trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trận đánh này được trù tính sẽ ngăn ngừa và giữ chân Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ không can thiệp đến cuộc chiến mà Nhật Bản đang hoạch định nhằm xâm chiếm Đông Nam Á, chống lại Anh Quốc, Hà Lan và Hoa Kỳ. Cuộc tấn công bao gồm hai đợt không kích với tổng cộng 353 máy bay xuất phát từ 6 tàu sân bay Nhật Bản. Trận tấn công đã đánh chìm 4 thiết giáp hạm Hoa Kỳ (2 chiếc trong số đó sau này được vớt lên và đưa trở lại hoạt động), và gây hư hỏng cho 4 chiếc khác. Quân Nhật còn đánh chìm hoặc phá hoại 3 tàu tuần dương, 3 tàu khu trục và 1 tàu thả mìn, phá hủy 188 máy bay, gây tổn thất về nhân mạng là 2.402 người tử trận và 1.282 người khác bị thương. Các trạm phát điện, xưởng tàu, xưởng sửa chữa và các kho chứa nhiên liệu và ngư lôi, cùng các bến tàu dành cho tàu ngầm và tòa nhà sở chỉ huy (cũng là nơi đặt bộ phận tình báo) đã không bị đánh trúng. Nhật Bản thiệt hại ít nhất, chỉ mất 29 máy bay và 4 tàu ngầm bỏ túi, với 65 người thương vong. [ Đọc tiếp ]

Tuần 5

Cuộc hành quân Ten-Go (kyūjitai: 天號作戰, shinjitai: 天号作戦; rōmaji: Ten-gō Sakusen; phiên âm Hán-Việt: Thiên hiệu tác chiến) là cuộc tổng phản công của Hải quân Đế quốc Nhật Bản nhằm vào lực lượng Đồng Minh tại Okinawa. Đây cũng là trận đụng độ không quân - hải quân cuối cùng giữa hải quân Nhật và Mỹ tại mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Một số tên gọi khác được sử dụng cho chiến dịch này là Chiến dịch Thiên Hiệu, Operation Heaven One (tiếng Anh) hay Ten-ichi-gō (tiếng Nhật), Hải chiến Bonomisakioki.

Tháng 4 năm 1945, Đệ nhị hạm đội thuộc Hạm đội Liên hợp Nhật Bản bao gồm thiết giáp hạm lớn nhất thế giới Yamato, cùng tuần dương hạm hạng nhẹ Yahagi và 8 khu trục hạm đã thực hiện một cuộc tổng phản công của hải quân Nhật ở Okinawa; nhưng nếu lưu ý kỹ càng hơn về văn hóa Nhật Bản và tình thế chiến tranh của Nhật lúc đó, có thể nhận thấy cuộc hành quân này chính là một hành động "Harakiri - tự sát để bảo toàn danh dự" của Hải quân Đế quốc Nhật Bản theo truyền thống võ sĩ đạo. Tuy nhiên, trước khi đến được Okinawa, chỉ trong 2 giờ, những máy bay Mỹ xuất phát từ các hàng không mẫu hạm đã đánh chìm Yamato, Yahagi cùng 4 khu trục hạm khác vào ngày 7 tháng 4 năm 1945. Cùng lúc đó, để phối hợp với cuộc hành quân này, người Nhật đã cho xuất phát nhiều Kamikaze từ phi trường cực nam Kyūshū tấn công hạm đội Mỹ tại Okinawa gây hư hại cho một số tàu chiến Mỹ. [ Đọc tiếp ]

Tuần 6

Kinh Thi là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong Kinh Thi được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm, từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, gồm 311 bài thơ. Kinh Thi chia làm ba bộ phận lớn là Phong, Nhã và Tụng. Nguồn gốc các bài thơ trong Kinh Thi khá phức tạp, gồm cả ca dao, dân ca và nhã nhạc triều đình, với các tác giả thuộc mọi tầng lớp trong xã hội đương thời. Từ lĩnh vực dân gian, âm nhạc được chuyển sang lĩnh vực thành văn rồi thành kinh tịch, Kinh Thi đã trải qua quá trình sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn công phu. Trong thời Chiến Quốc, Kinh Thi được coi là "sách giáo khoa" toàn xã hội, luôn được các học giả truyền tụng, học tập với phương châm "Không học Thi thì không biết nói" (bất học Thi, vi dĩ ngôn - Khổng Tử). Trong sự kiện đốt sách của nhà Tần, Kinh Thi bị mất mát rất nhiều, sau đó mới được sưu tầm và khôi phục qua công sức của nhiều học giả từ đời Hán trở đi. Trong số đó, bản Kinh Thi do hai thầy trò Mao Hanh, Mao Trường biên soạn là bản thông dụng nhất cho đến ngày nay. Cũng trong thời Hán, Kinh Thi trở thành một trong Ngũ kinh của Nho giáo.

Kinh Thi được ví như một bức tranh miêu tả toàn cảnh về xã hội đương thời, từ lịch sử, phong tục tập quán, tình trạng xã hội và chế độ chính trị của Trung Quốc thời Chu cho đến sông núi, cây cỏ, chim thú... Do đó, Kinh Thi được coi là nền tảng cho khuynh hướng hiện thực của văn học Trung Quốc. Kinh Thi là một kiệt tác văn học giàu tính sáng tạo cả về nội dung và hình thức. Khuynh hướng tư tưởng và phong cách nghệ thuật Kinh Thi đều ảnh hưởng sâu xa đến văn học đời sau. [ Đọc tiếp ]

Tuần 7

Các vùng chiến sự chính trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979

Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 là cuộc chiến ngắn nhưng bạo liệt khi Trung Quốc đem quân đánh vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc bắt đầu vào ngày 17 tháng 2 năm 1979. Chiến tranh biên giới Việt – Trung xuất phát từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia và ý đồ “dạy cho Việt Nam một bài học” của Đặng Tiểu Bình, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc hoàn thành rút quân vào ngày 18 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và một số thị trấn vùng biên. Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới vẫn còn tiếp diễn thêm hơn mười năm. Tới năm 1991, Quan hệ ngoại giao Trung–Việt mới chính thức được bình thường hóa. [ Đọc tiếp ]

Tuần 8

Hướng đạo là một phong trào thanh thiếu niên có phạm vi toàn cầu với mục đích được nêu rõ là trợ giúp giới trẻ trong việc phát triển tâm linh, tâm trí và sức khỏe để đóng những vai trò xây dựng trong xã hộicộng đồng. Hướng đạo bắt đầu vào năm 1907 khi Robert Baden-Powell tổ chức một cuộc cắm trại Hướng đạo đầu tiên tại đảo Brownsea ở Anh. Baden-Powell viết ra các nguyên tắc của Hướng đạo trong sách Hướng đạo cho nam, dựa vào các sách quân đội trước đây của ông. Trong nửa đầu thế kỷ 20, phong trào phát triển bao gồm ba lứa tuổi chính (Ấu, Thiếu, Tráng). Phong trào dùng Phương pháp Hướng đạo, một chương trình giáo dục không chính thức chú ý đặc biệt vào các hoạt động thực hành ngoài trời, bao gồm cắm trại, kỹ năng sống trong rừng, trò chơi dưới nước, đi bộ đường dài, du hành với trang bị sau lưng, và các trò thể thao. Gieo trồng tình yêu và sự hiểu rõ giá trị cuộc sống ngoài trời và các hoạt động ngoài trời là một yếu tố chính.

Một đặc điểm của phong trào dễ được nhận ra là đồng phục Hướng đạo với khăn quàngmũ vận động hay mũ đội đầu tương ứng. Huy hiệu đặc biệt trên đồng phục bao gồm hoa bách hợphình ba lá, cũng như các chuyên hiệu và những phù hiệu đẳng cấp khác. Năm 2007, Hướng đạo nam và nữ cộng lại có trên 38 triệu thành viên trong 216 quốc gia. Hai tổ chức Hướng đạo chính lớn nhất thế giới: một là Tổ chức Phong trào Hướng đạo Thế giới dành cho nam và các hội Hướng đạo có cả nam và nữ, hai là Hội Nữ Hướng đạo Thế giới dành cho nữ nhưng đôi khi cũng chấp nhận các hội Hướng đạo có nam và nữ. [ Đọc tiếp ]

Tuần 9

Lỗ đen là một vùng trong không-thời giantrường hấp dẫn ngăn cản mọi thứ, bao gồm cả ánh sáng cũng không thể thoát ra. Thuyết tương đối rộng tiên đoán một lượng vật chất với khối lượng đủ lớn nằm trong phạm vi đủ nhỏ sẽ làm biến dạng không thời gian để trở thành lỗ đen. Xung quanh lỗ đen là một mặt xác định bởi phương trình toán học gọi là chân trời sự kiện, mà tại đó khi vật chất vượt qua nó sẽ không thể thoát ra ngoài lỗ đen được. Lỗ đen gọi là "đen" bởi vì nó hấp thụ mọi bức xạ và vật chất hút qua chân trời sự kiện, giống như một vật đen tuyệt đối trong nhiệt động lực học; nó cũng không phải là một loại "lỗ" hay "hố" nào mà là vùng không thời gian không để cho một thứ gì thoát ra. Lý thuyết trường lượng tử trong không thời gian cong tiên đoán tại chân trời sự kiện lỗ đen có phát ra bức xạ giống như vật đen có nhiệt độ nhất định phát ra bức xạ nhiệt. Nhiệt độ này tỉ lệ nghịch với khối lượng của lỗ đen, khiến cho rất khó quan sát được bức xạ này đối với các lỗ đen có khối lượng sao hay trung bình.

Trong thế kỷ 18, John Michell và Pierre-Simon Laplace từng xét đến vật thể có trường hấp dẫn mạnh mô tả bởi cơ học cổ điển khiến cho ánh sáng không thể thoát ra. Lý thuyết hiện đại đầu tiên về đặc điểm của lỗ đen nêu bởi Karl Schwarzschild năm 1916 khi ông tìm ra nghiệm chính xác đầu tiên cho phương trình trường Einstein, mặc dù ý nghĩa vật lý và cách giải thích về vùng không thời gian mà không thứ gì có thể thoát được do David Finkelstein nêu ra đầu tiên vào năm 1958. Trong một thời gian dài, các nhà vật lý coi nghiệm Schwarzschild là miêu tả toán học thuần túy. Cho đến thập niên 1960, những nghiên cứu lý thuyết mới chỉ ra rằng lỗ đen hình thành theo những tiên đoán chặt chẽ của thuyết tương đối tổng quát. Khi các nhà thiên văn phát hiện ra các sao neutron, pulsarCygnus X-1 - một lỗ đen trong hệ sao đôi, thì những tiên đoán về quá trình suy sụp hấp dẫn trở thành hiện thực, và khái niệm lỗ đen cùng với các thiên thể đặc chuyển thành lý thuyết miêu tả những thực thể đặc biệt này trong vũ trụ. [ Đọc tiếp ]

Tuần 10

Dean chụp hình cho phim Rebel Without a Cause năm 1955.

James Dean là một nam diễn viên điện ảnh người Mỹ xuất thân từ tiểu bang Indiana. Dean được nhớ tới như một huyền thoại của lịch sử điện ảnh Hollywood, đại diện cho những thay đổi của giới trẻ và phân tầng xã hội Mỹ thập niên 1950. Bộ phim gắn liền với tên tuổi của anh là Rebel Without a Cause với vai diễn một cậu thanh niên cố gắng hòa nhập với bạn bè cùng trang lứa và bất bình với những ý kiến của bố mẹ mình, phản ánh khoảng cách thế hệ cũng như những thay đổi trong nhận thức thanh thiếu niên Mỹ đương thời. Hai vai diễn lớn khác bao gồm vai chính trong phim East of Eden và phim Giant.

Sau cái chết vì tai nạn xe hơi năm 1955, Dean trở thành diễn viên đầu tiên nhận được đề cử giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất sau khi qua đời. Năm 1999, anh được Viện phim Mỹ xếp hạng 18 trong danh sách những ngôi sao vĩ đại nhất của lịch sử điện ảnh Hoa Kỳ. Dù sự nghiệp ngắn ngủi chỉ với ba bộ phim thủ vai chính, nam diễn viên được vinh danh như một biểu tượng văn hóa đại chúng Mỹ thập niên 1950 với vai trò là người khởi đầu trào lưu "thanh niên nổi loạn" ("bad boy") và phong cách thời trang "cool" ("ngầu"). Ảnh hưởng của tài tử Hollywood còn lan tới nền âm nhạc rockrock and roll của thế hệ sau này. [ Đọc tiếp ]

Tuần 11

Một con chim ưng (Milvus milvus) đang bay, có thể thấy cả lông bay cánh và lông bay đuôi ở loài chim này.

Lông bay là những chiếc lông vũ dài, cứng; có hình dạng bất đối xứng, nhưng được xếp cân đối trên cánh hoặc đuôi của chim, chức năng chính là hỗ trợ tạo ra lực đẩy và lực nâng, nhờ đó giúp chim có thể bay. Những lông bay nằm ở cánh được gọi là lông bay cánh, còn những lông bay ở đuôi được gọi là lông bay đuôi. Bên cạnh đó, lông bay của một số loài chim đã tiến hóa để thực hiện thêm các chức năng khác, thường liên quan đến các tập tính như báo hiệu lãnh thổ, tán tỉnh hoặc hỗ trợ trong việc tìm kiếm thức ăn. Chẳng hạn, ở một số loài, những chiếc lông này đã phát triển thành những dải dài sặc sỡ nhằm thu hút bạn tình, còn ở một số loài khác, lông bay giúp tạo ra âm thanh trong các màn bay trình diễn. Rìa lông bay cánh ở có những răng cưa giúp loài chim này có thể bay mà không tạo ra tiếng động (điều này giúp chúng săn mồi thành công hơn); lông bay đuôi ở chim gõ kiến ​​lại cực kỳ cứng, giúp chúng có thể bám chắc khi mổ vào thân cây. Ngay cả những loài chim không biết bay vẫn còn tồn tại lông bay, dù đôi khi những lông này đã bị biến đổi hoàn toàn.

Việc thay loại lông quan trọng này có thể làm giảm khả năng bay – một vấn đề nghiêm trọng đối với chim. Chính vì vậy, các loài chim khác nhau đã có những cách khác nhau để đối phó với vấn đề này: thay thế tất cả lông bay cùng một lúc (làm chim không thể bay nhưng chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn) cho đến kéo dài thời gian thay lông đến tận một vài năm. [ Đọc tiếp ]

Tuần 12

Gaga biểu diễn "Government Hooker" trong chuyến lưu diễn Born This Way Ball (2012–2013).

"Government Hooker" là một bài hát của nữ ca sĩ người Mỹ Lady Gaga, trích từ album phòng thu thứ hai của cô mang tên Born This Way (2011). Để phục vụ việc sáng tác và sản xuất bài hát, Gaga đã hợp tác với các nhà sản xuất thu âm gồm Fernando Garibay, DJ White Shadow và DJ Snake. Bài hát này từng là một bản nhạc demo mà Shadow và DJ Snake cùng sản xuất. Quá trình thu âm bài hát bắt đầu từ năm 2010 tại phòng thu âm Studio at the Palms tọa lạc tại thành phố Las Vegas.

"Government Hooker" là một bài hát thuộc thể loại synth-pop và mang những âm hưởng từ các dòng nhạc techno, trance và industrial. Bài hát xoay quanh chủ đề nữ quyền, nói bóng gió đến mối tình nghi vấn giữa tổng thống Mỹ John F. Kennedy với nữ diễn viên người Mỹ Marilyn Monroe. Các nhà phê bình đã dành nhiều lời khen đến bài hát kể từ khi nó ra mắt vì phần âm nhạc cùng với chủ đề đen tối và tế nhị mà nó đề cập. Mặc dù không được phát hành dưới dạng đĩa đơn nhưng "Government Hooker" vẫn được xếp hạng tại Hàn Quốc và từng giành được vị trí thứ 16 trên bảng xếp hạng Hot Dance/Electronic Digital Songs của Hoa Kỳ. Gaga từng thể hiện bài hát trong chuyến lưu diễn Born This Way Ball (2012–2013) và tại chương trình hòa nhạc thường trú ở thành phố Las Vegas mang tên Lady Gaga Enigma (2018–2019) của nữ ca sĩ. [ Đọc tiếp ]

Tuần 13

Tượng Menkauhor mặc chiếc váy của lễ hội Sed từ Memphis

Menkauhor Kaiu là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy của Vương triều thứ Năm, triều đại của ông tồn tại vào khoảng cuối thế kỷ 25 hoặc đầu thế kỷ 24 TCN. Menkauhor có thể đã trị vì tám hoặc chín năm, ông đã kế vị vua Nyuserre Ini, và sau này được kế vị bởi Djedkare Isesi. Mặc dù Menkauhor đã được chứng thực thông qua các ghi chép lịch sử, chỉ còn sót lại rất ít các hiện vật có niên đại thuộc về vương triều của ông cho đến ngày nay. Bởi vậy, mối quan hệ huyết thống của ông với vị vua tiền nhiệm và vị vua kế nhiệm hiện vẫn chưa rõ ràng, và cũng chưa có bất cứ người con nào của ông được biết đến. Khentkaus III có thể là thân mẫu của Menkauhor, theo như những bằng chứng được phát hiện trong ngôi mộ của bà vào năm 2015.

Ngoài việc xây dựng các công trình kiến trúc, chúng ta chỉ biết được duy nhất một hoạt động đã diễn ra dưới vương triều của Menkauhor đó là một cuộc viễn chinh đến các mỏ đồng và ngọc lam ở Sinai. Menkauhor đã ra lệnh xây dựng một ngôi đền mặt trời, được gọi là "Akhet-Ra" nghĩa là "Chân Trời của Ra". Đây là ngôi đền mặt trời cuối cùng được xây dựng, tuy nhiên ngôi đền này chỉ được nhắc đến thông qua các dòng chữ khắc được tìm thấy trong những ngôi mộ thuộc về các vị tư tế của nó, vị trí của nó cũng chưa được xác định. Menkauhor đã được chôn cất trong một kim tự tháp nhỏ ở Saqqara, nó được người Ai Cập cổ đại gọi tên là Netjer-Ipet Menkauhor, "Ngôi nhà thiêng liêng của Menkauhor". Ngày nay, nó được biết đến với tên gọi là Kim tự tháp không đầu, tàn tích của nó đã bị cát vùi lấp cho đến khi được phát hiện lại vào năm 2008. [ Đọc tiếp ]

Tuần 14

Một biệt thự trên đường Trần Hưng Đạo

Đà Lạt là thành phố may mắn được sở hữu một di sản kiến trúc giá trị, ví như một bảo tàng kiến trúc châu Âu thế kỷ 20. Từ một đô thị nghỉ dưỡng do người Pháp xây dựng, qua hơn một thế kỷ, Đà Lạt ngày nay đã trở thành một thành phố du lịch nổi tiếng với hơn 200 ngàn dân, trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh Lâm Đồng và vùng Tây Nguyên. Lịch sử phát triển quy hoạch đô thị Đà Lạt nửa đầu thế kỷ 20 dường như gắn liền với sự phát triển nghệ thuật quy hoạch đương đại của thế giới. Từ chương trình xây dựng của Toàn quyền Paul Doumer, đồ án tổng quát áp dụng phương pháp quy hoạch phân khu chức năng của thị trưởng đầu tiên Paul Champoudry, đến những bản quy hoạch của các kiến trúc sư Hébrard năm 1923, Pineau năm 1933, Mondet năm 1940 và Lagisquet năm 1943, Đà Lạt luôn hiện lên như một thành phố nghỉ dưỡng miền núi kiểu mẫu với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Tuy chứa đựng những quan điểm đôi khi khác biệt, nhưng các đồ án quy hoạch thành phố luôn mang tính kế thừa lẫn nhau và được điều chỉnh để phù hợp với điều kiện thực tế từng thời kỳ. Với sự nhất quán trong việc thực thi ý tưởng xây dựng một thành phố cảnh quan, các kiến trúc sư người Pháp đã tạo nên những đặc điểm nổi trội cho kiến trúc đô thị Đà Lạt, ít có thể thấy ở những thành phố khác của Việt Nam. [ Đọc tiếp ]

Tuần 15

Anphong Nguyễn Hữu Long là một Giám mục Công giáo Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Vinh. Trước đây, từ năm 2013 đến năm 2018, ông là giám mục phụ tá của Giáo phận Hưng Hóa. Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, ông đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng nhiệm kì 2013 - 2016 và nhiệm kì 2016 - 2019. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Mang vào mình mùi chiên". Giám mục Nguyễn Hữu Long quê tại Hà Nội. Sau khi ra đời không lâu, ông theo gia đình di cư vào miền Nam. Sau quá trình tu học dài hạn với nhiều khó khăn, Nguyễn Hữu Long được phong chức linh mục năm 1990. Sau bốn năm làm phó xứ Tam Kỳ, linh mục Long được cử đi du học Pháp và tốt nghiệp với văn bằng Cao học Giáo luật. Trở về nước, ông đảm trách nhiều vai trò khác nhau, đến năm 2003 thì gia nhập Dòng Xuân Bích và năm 2011 trở thành Giám đốc Đại chủng viện Xuân Bích Huế.

Năm 2013, giáo hoàng bổ nhiệm linh mục Nguyễn Hữu Long làm Giám mục phụ tá Hưng Hóa. Trong thời kỳ đảm nhận vai trò này, giám mục Nguyễn Hữu Long, với phong cách được nhận định là bình dị và gần gũi, đã tạo được ấn tượng tốt đẹp trong cộng đồng người Công giáo. Đến cuối năm 2018, Tòa Thánh điều chuyển giám mục Nguyễn Hữu Long làm Giám mục Giáo phận Vinh. Ông đến tân giáo phận của mình vào ngày 20 tháng 1 năm 2019 và chính thức nhận chức vụ Giám mục Giáo phận Vinh vào ngày 12 tháng 2 năm 2019. [ Đọc tiếp ]

Tuần 16

Theo chiều kim đồng hồ tính từ trên cùng: Đấu trường La Mã, Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Lâu đài Thiên Thần, Cầu Thiên Thần, đài phun nước Trevi và đền Pantheon.

Romathủ đô của nước Ý và là một đô thị cấp huyện (comune) loại đặc biệt (có tên đầy đủ là Comune di Roma Capitale), đồng thời đóng vai trò là thủ phủ vùng Lazio của quốc gia này. Roma là thành phố lớn nhất và đông dân nhất ở Ý với hơn 2,8 triệu cư dân trong phạm vi 1.285 km². Đây là thành phố đông dân thứ tư của Liên minh châu Âu, sau Luân Đôn, BerlinMadrid, tính theo số dân sinh sống bên trong phạm vi thành phố. Roma cũng đồng thời là trung tâm của Thành phố đô thị Roma Thủ đô với hơn 4,3 triệu cư dân, do đó là thành phố đô thị đông dân nhất của nước Ý. Roma tọa lạc ở vùng Lazio, dọc theo con sông Tevere (khu vực Latium lịch sử) thuộc Trung Tây của bán đảo Ý. Thành quốc Vatican là một đất nước độc lập nằm trong lòng thành Roma, đây là ví dụ duy nhất về một quốc gia nằm trong lãnh thổ của một thành phố; cũng vì lý do này mà Roma thường được xem là thủ đô lưỡng quốc.

Lịch sử Roma trải dài 28 thế kỷ. Mặc dù thần thoại La Mã đặt mốc thời gian thành lập Roma vào khoảng năm 753 TCN, tuy nhiên thành phố đã có mặt cư dân sinh sống lâu hơn thế, khiến nó trở thành một trong những khu định cư lâu đời nhất có con người vẫn đang tiếp tục sinh sống tại châu Âu. Cư dân ban đầu của thành phố có nguồn gốc hỗn hợp từ người Latinh, EtruscaSabine. Sau đó, thành phố trở thành thủ đô của Vương quốc La Mã, Cộng hòa La MãĐế quốc La Mã, và được nhận định là cái nôi của nền văn minh phương Tây cũng như là kiểu mẫu đô thị trung tâm đầu tiên từng xuất hiện. Roma ban đầu được gọi là Thành phố vĩnh hằng (tiếng Latinh: Urbs Aeterna) bởi thi hào Tibullus người La Mã trong thế kỷ thứ nhất TCN và ý tưởng đó đã được Ovidius, VergiliusLivius tiếp nối. Thành phố còn nổi tiếng với danh hiệu "Caput Mundi" trong tiếng Latinh có nghĩa là Kinh đô thế giới. [ Đọc tiếp ]

Tuần 17

Thuyết tương đối rộng là một lý thuyết về hấp dẫn do Albert Einstein phát triển từ năm 1907 đến năm 1915. Theo thuyết tương đối rộng, chúng ta quan sát thấy sự hút giữa các khối lượng với nhau là do kết quả của sự uốn cong không gian và thời gian do chúng gây ra. Cho đến đầu thế kỷ 20, định luật vạn vật hấp dẫn của Newton đã được công nhận hơn hai trăm năm do những miêu tả phù hợp về lực hấp dẫn giữa các khối lượng với nhau. Trong mô hình của Newton, hấp dẫn là kết quả của lực hút giữa các vật thể với nhau. Mặc dù chính Newton đã băn khoăn về bản chất bí ẩn của lực này, nhưng mô hình của ông đã rất thành công trong việc miêu tả chuyển động của các vật thể.

Các thí nghiệm và quan sát đã cho thấy lý thuyết hấp dẫn của Einstein có kể đến một vài hiệu ứng mà chưa được định luật của Newton giải thích thỏa đáng, như dị thường nhỏ trong quỹ đạo của Sao Thủy và các hành tinh khác. Thuyết tương đối tổng quát cũng tiên đoán những hiệu ứng mới của hấp dẫn, như sóng hấp dẫn, thấu kính hấp dẫn và hiệu ứng của hấp dẫn tác động lên thời gian còn được gọi là sự giãn thời gian do hấp dẫn. Rất nhiều tiên đoán này đã được xác nhận bởi các thí nghiệm, trong khi nhiều chủ đề khác vẫn còn đang được tiếp tục nghiên cứu. Gần đây, các nhà khoa học thuộc dự án LIGO, Virgo và GEO 600 đã quan sát được trực tiếp sóng hấp dẫn, và hình ảnh vô tuyến chụp trực tiếp môi trường bao quanh lỗ đen siêu khối lượng đã được công bố bởi dự án EHT. [ Đọc tiếp ]

Tuần 18

Đường mòn Hồ Chí Minh năm 1967

Đường Trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh (tiếng Anh: Ho Chi Minh trail) là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược chạy từ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam vào tới lãnh thổ miền nam Việt Nam, đi qua miền Trung Việt Nam, hạ Lào, và Campuchia. Hệ thống này cung cấp binh lực, lương thực và vũ khí khí tài để chi viện cho Quân Giải phóng miền NamQuân đội Nhân dân Việt Nam trong 16 năm (1959–1975) của thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Binh đoàn Trường Sơn (đoàn 559) Quân đội Nhân dân Việt Nam là đơn vị triển khai các đơn vị công binh, hậu cần, y tế, bộ binh và phòng không để đảm bảo hoạt động của hệ thống đường này. Đường Trường sơn còn được những người lính trong cuộc chiến gọi là tuyến lửa.

Ở Việt Nam, hệ thống đường này đặt tên là Đường Trường Sơn, lấy tên của dãy Trường Sơn - dãy núi chạy dọc miền Trung Việt Nam, nơi hệ thống này đi qua. Về sau, hệ thống này có thêm tên gọi Đường mòn Hồ Chí Minh, tên gọi này (Ho Chi Minh trail) có nguồn gốc từ Mỹ.

Trong chiến tranh Việt Nam, lực lượng quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã đánh phá hệ thống giao thông này bằng các chiến dịch bộ binh và không quân. Một hệ thống máy móc điện tử, thường được gọi là Hàng rào điện tử McNamara, đã được sử dụng để giúp hướng dẫn máy bay ném bom. Ngoài ra, chất độc da cam cùng một số loại chất độc diệt cỏ khác đã được rải xuống nhiều vùng rừng trên đường Trường Sơn làm trụi lá cây, các dự án tạo mưa và các chất hóa học tạo bùn cũng được Mỹ sử dụng để phá đường. Theo văn bản lịch sử chính thức của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (National Security Agency), đường Trường Sơn được quân đội Mỹ coi là "một trong những thành tựu vĩ đại của nền kỹ thuật quân sự ở thế kỷ 20." [ Đọc tiếp ]

Tuần 19

Steve Lillywhite, nhà sản xuất của ca khúc "City of Angels".

"City of Angels" là một bài hát của ban nhạc rock người Mỹ Thirty Seconds to Mars trích từ album phòng thu thứ tư Love, Lust, Faith and Dreams. Ca khúc do giọng ca chính Jared Leto sáng tác kiêm vai trò đồng sản xuất với Steve Lillywhite. "City of Angels" lấy cảm hứng từ trải nghiệm của Leto về cuộc sống ở thành phố Los Angeles bên gia đình, cùng với những ảnh hưởng từ nền văn hóa nơi đây. Mang đậm chất liệu synthrock và phong cách âm nhạc từ những năm 1980, bài hát là một ví dụ tiêu biểu cho tính muôn dạng và phá cách của album. Ban nhạc phát hành "City of Angels" dưới dạng đĩa đơn quảng bá vào ngày 30 tháng 7 năm 2013 tại Hoa Kỳ, đồng thời cũng phổ biến trên các đài phát thanh âm nhạc đương đại ở châu Âu vào ngày 25 tháng 10 năm 2013. Ban nhạc còn phát hành một phiên bản piano của ca khúc với định dạng nhạc số vào tháng 7 năm 2014.

"City of Angels" đón nhận nhiều lời tán dương từ các nhà phê bình âm nhạc, phần lớn họ đánh giá cao quá trình sáng tác, lời bài hát và phong cách mà Leto trình diễn. Sau khi phát hành album Love, Lust, Faith and Dreams, ca khúc đã xuất hiện ở nửa cuối bảng xếp hạng UK Rock Charts. Khi phát hành dưới dạng đĩa đơn, "City of Angels" tiếp tục lọt vào bảng xếp hạng này và vươn lên vị trí số 21, đồng thời giành hạng 8 trên bảng xếp hạng Alternative Songs tại Hoa Kỳ. Bài hát cũng có những thành công nhất định trên một số thị trường quốc tế nhờ doanh số tải album kỹ thuật số. [ Đọc tiếp ]

Tuần 20

Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Frank Ocean

Channel Orangealbum phòng thu đầu tay của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Frank Ocean, phát hành ngày 10 tháng 7 năm 2012 bởi Def Jam Recordings. Sau khi ra mắt mixtape năm 2011 Nostalgia, Ultra, Ocean bắt đầu bắt tay sáng tác album với người đồng sự Malay, người đã giúp anh sản xuất những bản thu của mixtape tại phòng thu EastWest Studio ở Hollywood. Ocean đã thoát khỏi sự phụ thuộc vào các đoạn nhạc mẫu như khi làm mixtape, và muốn tiếp cận những âm thanh và cấu trúc bài hát theo cách hoàn toàn khác khi thực hiện Channel Orange. Anh đã đặt tên album như một sự ám chỉ tới hiện tượng thần kinh cảm giác kèm tự vị - màu sắc và sắc màu mà anh cảm nhận vào mùa hè khi anh lần đầu biết yêu.

Là một album R&B và neo soul, Channel Orange có phong cách âm nhạc khá bất thường, với những bài hát lấy cảm hứng từ các cảnh lướt qua trong phim, và chịu ảnh hưởng từ các thể loại electro-funk, pop-soul, jazz-funk và âm nhạc ảo giác. Các bài hát trong album có đặc trưng là những giai điệu khác thường, cách phối khí theo không gian, những tiếng phách tốc độ trung bình, và sử dụng những nhạc cụ như đàn organ điện tử, bộ gõ câm, và bộ tổng hợp chuyển thế. Các sáng tác của Ocean khai thác những chủ đề như tình yêu đơn phương, sự tha hóa, giai cấp, và ma túy, với ca từ thể hiện sự cảm thông, những hình ảnh siêu thực, các câu nói đối thoại, và các câu chuyện mô tả những bản ngã đen tối của con người. Với chất giọng nam trung nhẹ và tinh tế, trong album anh thể hiện những đoạn hát tuôn ra một cách không cố định, đi cùng những khoảng giọng mái và nam cao xen kẽ. [ Đọc tiếp ]

Tuần 21

Giuse Nguyễn Chí Linh

Giuse Nguyễn Chí Linh (sinh 1949) là một giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma, hiện giữ chức tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Huế và đương kim chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhiệm kỳ 2016 - 2019. Trước khi trở thành Tổng giám mục Huế, ông cũng từng giữ các chức vụ khác như: giám mục chính tòa, Giám quản Tông Tòa Giáo phận Thanh Hóa, Giám quản Tông Tòa Giáo phận Phát Diệm.

Ngoài các công việc mục vụ thuần túy, Giuse Nguyễn Chí Linh cũng thường xuyên cùng đồng hành với các đoàn thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam hỗ trợ, động viên các nạn nhân bão lũ ở nhiều địa bàn khác nhau. Trong thời kỳ cai quản giáo phận Thanh Hóa, ông triển khai các chương trình hướng đến lợi ích cộng đồng như: thành lập Hội Thầy thuốc Samaritano với mục đích hỗ trợ bệnh nhân, người khuyết tật và người đau khổ trong giáo phận; cấp học bổng học sinh khó khăn, một số phòng phát thuốc miễn phí, thành lập dự án hỗ trợ vốn cho phụ nữ nghèo kiếm thu nhập và một vài kế hoạch phát triển nông nghiệp như làm trạm bơm, làm đường bê tông ở các làng quê. Ông cũng thường xuyên kêu gọi mọi người hỗ trợ các nạn nhân bão lũ, những người khó khăn và đến thăm các trại phong, trại khuyết tật trên địa bàn giáo phận Thanh Hóa. Ngoài ra, Nguyễn Chí Linh cũng bày tỏ sự đồng cảm với người nhiễm HIV/AIDS và bày tỏ quan điểm về bảo vệ sự sống bào thai. [ Đọc tiếp ]

Tuần 22

Ronald Wilson Reagan

Ronald Reagan (6 tháng 2 năm 19115 tháng 6 năm 2004) là tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ (1981–1989). Trước đó, ông là Thống đốc thứ 33 của bang California (1967–1975), và từng là diễn viên truyền hình, truyền thanh và điện ảnh.

Reagan sinh ra tại thành phố Tampico, Illinois, và lớn lên ở Dixon. Ông học tại Đại học Eureka và có bằng cử nhân về kinh tế và xã hội học. Sau khi tốt nghiệp, đầu tiên ông chuyển đến tiểu bang Iowa để làm việc trong vai trò phát thanh viên, sau đó vào năm 1937, ông đến thành phố Los Angeles nơi ông khởi nghiệp trong vai trò diễn viên điện ảnh và sau đó là diễn viên truyền hình. Một số bộ phim nổi bật nhất của ông gồm có Knute Rockne, All American (1940), Kings Row (1942), và Bedtime for Bonzo (1951). Reagan làm chủ tịch liên đoàn lao động Screen Actors Guild và sau đó là người phát ngôn cho công ty General Electric (GE). Sau khi đọc một bài diễn văn mạnh mẽ ủng hộ ứng cử viên tổng thống Barry Goldwater năm 1964, mọi người thuyết phục ông chạy đua vào chức Thống đốc tiểu bang California. Ông thắng cử cương vị này hai năm sau đó và tái đắc cử lần nữa vào năm 1970. Ông thất bại trong các lần chạy đua tìm sự đề cử của Đảng Cộng hòa ra tranh cử tổng thống Hoa Kỳ vào các năm 1968 và năm 1976 nhưng sau cùng ông giành được sự đề cử của đảng Cộng hòa và chiến thắng trong Tổng tuyển cử năm 1980, đánh bại đương kim tổng thống Jimmy Carter.

Trong vai trò tổng thống, Reagan thực hiện các đề xướng kinh tế và chính trị mới có tầm cỡ. Các chính sách kinh tế trọng cung của ông, được gọi là "Reaganomics", chủ trương giảm tỉ lệ thuế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát nguồn tiền để giảm lạm phát, bãi bỏ kiểm soát kinh tế, và giảm chi tiêu của chính phủ. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông thoát chết trong một vụ ám sát; ông kiên quyết chống lại các công đoàn lao động, và ra lệnh xâm chiếm Grenada. Reagan tái đắc cử tổng thống một cách vang dội vào năm 1984 và tuyên bố rằng điều này là "bình minh tại Mỹ". Nhiệm kỳ thứ hai của ông để lại với những vấn đề còn gây tranh cãi, chủ yếu vì các vấn đề đối ngoại, thí dụ như sự kết thúc Chiến tranh lạnh, vụ không kích Libya năm 1986, và vụ bê bối Iran-Contra bị phơi bày. [ Đọc tiếp ]

Tuần 23

Hình ảnh bờ biển bán đảo Kintyre, nơi McCartney lấy cảm hứng sáng tác

"The Long and Winding Road" là bản ballad do Paul McCartney sáng tác (đề tên Lennon-McCartney). Đây là ca khúc thứ 10 trong album Let It Be của The Beatles. Bài hát trở thành ca khúc thứ 20 và cũng là ca khúc cuối cùng của nhóm nhạc này leo lên vị trí số 1 trên bảng xếp hạng của Hoa Kỳ vào ngày 13 tháng 6 năm 1970, và là đĩa đơn cuối cùng do nhóm phát hành khi cả bốn thành viên đều còn sống. "The Long and Winding Road" cùng với "For You Blue" trở thành những bản hit khi đĩa đơn 2-mặt này leo lên vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ vào năm 1970.

Tuy bản phát hành sau cùng của ca khúc này rất thành công, nhưng những thay đổi khi thực hiện hậu kỳ của nhà sản xuất Phil Spector khiến McCartney tức giận tới mức khi đưa vấn đề giải tán ban nhạc the Beatles ra toà, McCartney đã nêu việc xử lý ca khúc "The Long and Winding Road" là một trong 6 nguyên nhân dẫn đến quyết định đó. Các bản phối mới của ca khúc với ít nhạc cụ hơn sau đó đã được phát hành dưới tên của The Beatles và McCartney. [ Đọc tiếp ]

Tuần 24

Squatina squatina ở Tenerife.

Squatina squatina là một loài cá trong họ cá nhám dẹt từng phân bố rộng rãi ở vùng nước ven biển phía đông bắc Đại Tây Dương. Đây là loài ngụy trang tốt ở khu vực đáy đại dương, với cơ thể phẳng, mở rộng ở phần vây bụng và vây ngực khiến chúng có bề ngoài giống với một con cá đuối. Squatina squatina có cơ thể rộng, râu hình nón, lưng có ít gai, cơ thể có màu xám hoặc nâu nhạt ở lưng với một mô hình của rất nhiều chấm sáng nhỏ li ti. Một con trưởng thành có thể dài tới 2,4 m (7,9 ft).

Giống như các loài khác trong họ, Squatina squatinađộng vật ăn thịt, săn mồi vào ban đêm. Chúng vùi mình trong lớp trầm tích bùn và chờ đợi con mồi đi qua. Thức ăn chủ yếu là các sinh vật đáy bao gồm động vật không xương sống. Con cái đẻ 2 năm một lần, mỗi lần sinh từ 7 - 25 con cá con. Squatina squatina thường ít gây nguy hiểm cho con người, nhưng nếu bị khiêu khích chúng có thể cắn và làm bị thương. Loài cá này bị đánh bắt làm thức ăn từ thời Hy Lạp cổ đại, và hiện nay được bán trên thị trường châu Âu dưới tên "monkfish". Kể từ giữa thế kỷ 20, căng thẳng thương mại trong đánh bắt cá đã khiến số lượng loài bị giảm nhanh chóng, một số địa phương loài này gần như đã tuyệt chủng, còn lại một số khu vực ở phía bắc thì quần thể phát triển phân tán, tương đối chậm và bấp bênh bởi tỷ lệ sinh sản thấp. Kết quả là, Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN) đã đưa chúng vào danh sách loài cực kỳ nguy cấp. [ Đọc tiếp ]

Tuần 25

Khế ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau từ một lần xuất bản bí mật có thể là được in tại Đức.

Chủ nghĩa tự do là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị chính trị cơ sở về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn gốc từ phong trào Khai sáng ở phương Tây, nhưng thuật ngữ này mang nhiều nghĩa khác nhau trong các giai đoạn khác nhau. Như tại Mỹ, khái niệm chủ nghĩa tự do (liberalism) có ý nói đến chủ nghĩa tự do xã hội (Social liberalism) trong khi ở các nơi khác nó vẫn mang ý nghĩa ban đầu của chủ nghĩa tự do cổ điển (classical liberalism).

Một cách khái quát, chủ nghĩa tự do nhấn mạnh đến quyền cá nhân. Nó đi tìm kiếm một xã hội có đặc điểm là tự do tư tưởng cho mỗi cá nhân, hạn chế quyền lực (nhất là của nhà nước và tôn giáo), pháp trị, tự do trao đổi tư tưởng, một nền kinh tế thị trường hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tự do, và một hệ thống chính phủ minh bạch trong đó các quyền của công dân được bảo vệ. Trong xã hội hiện đại, người theo chủ nghĩa tự do ủng hộ một nền dân chủ tự do có bầu cử công bằng và công khai mà mọi công dân đều được hưởng quyền bình đẳng trước pháp luật và có cơ hội thành công như nhau. [ Đọc tiếp ]

Tuần 26

Một biển hiệu métro ở Quận 1.

Métro Paris là hệ thống tàu điện ngầm phục vụ thành phố và vùng đô thị Paris. Tính cho đến năm 2007, hệ thống này có 16 tuyến, phần lớn chạy ngầm dưới đất, với tổng chiều dài 213 km. Métro Paris là một trong những biểu tượng của thủ đô nước Pháp, đặc trưng bởi mạng lưới các tuyến dày đặc, mật độ sử dụng cao và các bến tàu điện ngầm được trang trí theo phong cách Art nouveau.

Tuyến tàu điện ngầm đầu tiên của thành phố Paris được khánh thành nhân dịp Triển lãm thế giới 1900. Trong suốt những thập niên đầu thế kỷ 20, hệ thống Métro Paris phát triển mạnh mẽ, cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Sau một giai đoạn hoạt động trầm lắng trong "những thập niên của ô tô" (décennies voitures, 1950-1970), nhiều tuyến tàu điện ngầm đã tiếp tục được kéo dài ra vùng ngoại ô thành phố. Trong nội ô, các tuyến và trạm đã trở nên dày đặc đã khiến một thời gian dài Métro Paris không có thêm tuyến mới. Cho tới tận tháng 10 năm 1998, tuyến số 14, mới nhất của Métro Paris, được khánh thành. Khác với các tuyến trước đó, tuyến 14 được tự động hóa hoàn toàn. [ Đọc tiếp ]

Tuần 27

Trận Agincourt, hình minh họa của thế kỷ 15

Trận Agincourt là một chiến thắng lớn trong Chiến tranh Trăm Năm của quân Anh trước quân Pháp đông đảo hơn nhiều về mặt số lượng. Trận chiến diễn ra vào ngày thứ sáu 25 tháng 10 năm 1415 tại một địa điểm gần Azincourt ngày nay, thuộc miền Bắc Pháp. Đây là một toàn thắng của vua Henry V nước Anh và có ý nghĩa như một đòn giáng sấm sét của ông vào quân Pháp, bất chấp ưu thế to lớn về quân số của Pháp (gấp 6 lần). Không những gặp may mắn, mà lòng can trường của ông đã truyền cảm ba quân chiến đấu và thắng trận lừng danh này. Với liên tiếp hai đợt tấn công của quân Pháp bị phá tan mà quân Anh chỉ có chút ít thương vong, trận Agincourt trở thành một trong những cuộc ác chiến "một chiều" nhất trong lịch sử nhân loại, một vụ tàn sát thê lương tầng lớp Hiệp sĩ phong kiến Pháp. Được xem là cuộc đại thắng cuối cùng của quân Anh với cung dài trên đất Pháp, toàn thắng tại Agincourt cũng được xem là một chiến tích đầu tay của ông vua cầm binh Henry V. Trong văn học - lịch sử nước Anh, thắng lợi to tát của ông trong trận này - là tuyệt đỉnh cho cuộc tiến công nước Pháp của ông - đã trở nên bất hủ, góp phần làm nên niềm tự hào dân tộc Anh. Với tầm trọng đại trong suốt lịch sử châu Âu, chiến thắng oanh liệt này được coi là một biểu hiện cho chủ nghĩa anh hùng và binh thế của nước Anh. [ Đọc tiếp ]

Tuần 28

Daniel Craig, diễn viên thủ vai Bond trên phim trường Sòng bạc hoàng gia.

Sòng bạc hoàng gia là phim điện ảnh đề tài gián điệp của vương quốc Anh công chiếu năm 2006, phần thứ 21 trong loạt phim điện ảnh James Bond của Eon Productions và bản chuyển thể màn ảnh thứ ba từ cuốn tiểu thuyết cùng tên năm 1963 của nhà văn Ian Fleming. Phim do Martin Campbell đạo diễn với phần kịch bản do đội ngũ biên kịch gồm Neal Purvis và Robert Wade cùng Paul Haggis chắp bút. Đây là phim điện ảnh đầu tiên có sự tham gia của nam diễn viên Daniel Craig trong vai điệp viên MI6 hư cấu James Bond. Tác phẩm do Eon Productions chịu trách nhiệm sản xuất cho Metro-Goldwyn-MayerColumbia Pictures, đánh dấu phim Bond đầu tiên do Eon hợp tác sản xuất với một xưởng phim thứ hai. Sau Die Another Day, Eon Productions quyết định khởi động lại loạt phim, cho phép họ thể hiện một nhân vật Bond ít kinh nghiệm và dễ tổn thương hơn.

Sòng bạc hoàng gia lấy bối cảnh vào những năm đầu sự nghiệp của Bond ở vị trí đặc vụ 007, khi anh vừa nhận quyền được giết của mình. Nội dung phim kể về Bond trong một nhiệm vụ làm phá sản nhà tài trợ khủng bố Le Chiffre tại một giải đấu poker đánh cược lớn; Bond cũng rơi vào mối tình với Vesper Lynd, một nhân viên ngân quỹ được giao công việc cung cấp số tiền mà Bond cần cho giải đấu. Bộ phim khởi động một tiểu phần sẽ tiếp diễn trong Định mức khuây khỏa (2008). [ Đọc tiếp ]

Tuần 29

Giuse Maria Trịnh Như Khuê (1898 – 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là Hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu hiệu giám mục của ông là Hãy theo Thầy.

Hồng y Khuê quản lý địa phận Hà Nội (từ năm 1960 là Tổng giáo phận Hà Nội) trong khoảng thời gian gần 30 năm, từ năm 1950 đến khi qua đời năm 1978. Ngoài các công việc mục vụ Công giáo, ông còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội: cứu đói trong nạn đói năm 1945, lập Ban cứu tế và Quỹ cứu tế địa phận năm 1951 để hỗ trợ các hoàn cảnh khó khăn trong chiến tranh, thiết lập Ngày cứu tế để quyên góp tiền cho Quỹ cứu tế. Sau khi trở thành giám mục địa phận Hà Nội, ông thường giáo huấn giáo dân qua các bức thư chung, trong đó nổi bật là thư chung năm 1956 nói về sự yêu thương. Trịnh Như Khuê thẳng thừng đình chỉ các linh mục bỏ vào Nam sau hiệp định Giơ-ne-vơ, nhờ vậy số linh mục và giáo dân trong địa phận không bị tổn thất như các địa bàn khác. Sau ngày chính quyền mới tiếp quản thủ đô, ông thực hiện lập trường Công giáo chung sống với chính thể Cộng sản. Năm 2000, tên cố hồng y được đặt cho một con đường dài 2,6km tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. [ Đọc tiếp ]

Tuần 30

Một lính Mỹ (Robert L. Witzig) với khẩu bazooka 2,36-inch chuẩn bị nhắm vào xe tăng Bắc Triều Tiên trong Trận Osan.

Trận Osan là trận đánh đầu tiên giữa Quân đội Hoa KỳQuân đội Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên diễn ra vào ngày 5 tháng 7 năm 1950. Quân lực Hoa Kỳ gồm một lực lượng đặc nhiệm có 400 lính bộ binh được pháo binh yểm trợ đã đến Osan, phía nam Seoul với nhiệm vụ bọc hậu chặn đà tiến của quân Bắc Triều Tiên trong khi người Mỹ đưa quân tăng viện đến phía nam. Tuy nhiên lực lượng này không có cả pháo chống tăng lẫn vũ khí chống tăng bộ binh hiệu quả mà chỉ được trang bị bazooka đã lỗi thời và súng không giật M18 57mm. Về pháo binh, tình thế cũng không khả quan hơn khi cơ số đạn chất nổ mạnh chống tăng HEAT của lựu pháo 105mm chỉ có sáu viên cộng với loại pháo đủ uy lực đánh gục xe tăng Liên Xô T-34 thời điểm này chưa được quân Mỹ đưa sang chiến trường Triều Tiên.

Một đội hình xe tăng Bắc Triều Tiên gồm 33 xe tăng T-34/85 do Liên Xô sản xuất thuộc Trung đoàn Xe tăng 107, Sư đoàn Thiết giáp 105 tiến đến vị trí phòng tuyến Mỹ tại quốc lộ phía bắc Osan trúng đạn pháo 105mm, pháo không giật 75mm và bazooka của lực lượng đặc nhiệm Mỹ nhưng chỉ có bốn chiếc bị đứt xích bất động và số còn lại tiếp tục tiến về phía nam, bỏ qua phòng tuyến quân Mỹ. Sau khi đội hình xe tăng đã đi qua, lính Mỹ chuyển sang mục tiêu tiếp theo là 5.000 lính Bắc Triều Tiên của Sư đoàn Bộ binh 4 tiến đến vị trí của họ. Lính Mỹ đã tạm thời cầm chân được quân Bắc Triều Tiên trong vài giờ trước khi bị tràn ngập bởi các cuộc tấn công thọc sườn và cuối cùng đã phải rút lui trong hỗn loạn và thương vong nặng nề.. [ Đọc tiếp ]

Tuần 31

Chân dung Galileo Galilei.

Galileo Galilei (15 tháng 2 năm 15648 tháng 1 năm 1642) là một nhà thiên văn học, vật lý học, toán họctriết học người Ý, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học. Các thành tựu của ông gồm những cải tiến cho kính thiên văn và các quan sát thiên văn sau đó, và ủng hộ Chủ nghĩa Copernicus. Galileo đã được gọi là "cha đẻ của việc quan sát thiên văn học hiện đại", "cha đẻ của vật lý hiện đại" và "cha đẻ của Khoa học hiện đại." Stephen Hawking đã nói, "Galileo, có lẽ hơn bất kỳ một người riêng biệt nào, chịu trách nhiệm về sự khai sinh khoa học hiện đại."

Sự chuyển động của các vật thể tăng tốc đều, được dạy ở hầu hết trong các khóa học về vật lý của các trường trung học và cao đẳng, đã được Galileo nghiên cứu trong chủ đề về chuyển động học. Những đóng góp của ông trong thiên văn học quan sát gồm vệc xác nhận các tuần của Sao Kim bằng kính thiên văn, phát hiện bốn vệ tinh lớn nhất của Sao Mộc, được đặt tên là các vệ tinh Galileo để vinh danh ông, và sự quan sát và phân tích vết đen Mặt Trời. Galileo cũng làm việc trong khoa học và công nghệ ứng dụng, cải tiến thiết kế la bàn. [ Đọc tiếp ]

Tuần 32

Chùa Cầu ở phố cổ Hội An.

Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ XVII và XVIII. Trước thời kỳ này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của thương cảng Chăm Pa hay được nhắc đến cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ 19, do giao thông đường thủy ở đây không còn thuận tiện, cảng thị Hội An dần suy thoái, nhường chỗ cho Đà Nẵng khi đó đang được người Pháp xây dựng. Hội An may mắn không bị tàn phá trong hai cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối thế kỷ 20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội An dần được giới học giả và cả du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam.

Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, phần bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà phố, những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình hình thành, phát triển và cả suy tàn của đô thị. Hội An cũng là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Các hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh những giá trị văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc sống thường nhật của cư dân phố cổ với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Hội An được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị. [ Đọc tiếp ]

Tuần 33

Philípphê Nguyễn Kim Điền (1921 - 1988) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận Cần Thơ và nguyên Tổng giám mục đô thành Tổng Giáo phận Huế. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Nên mọi sự cho mọi người".

Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền sinh tại Trà Vinh và lớn lên tại Sài Gòn. Sau khi trở thành linh mục một khoảng thời gian ngắn, ông trở thành giám đốc chủng viện tại Sài Gòn nhưng quyết định từ bỏ để gia nhập dòng Tiểu Đệ, lấy đời sống khó nghèo làm mục tiêu. Trong thời gian là linh mục dòng Tiểu Đệ, ông lao động, mưu sinh bằng các công việc như khuân vác, đạp xích lô đồng thời thực hiện công việc truyền giáo. Năm 1960, linh mục Điền được chọn làm Giám mục Cần Thơ rồi thăng Tổng giám mục, Giám quản Tông Tòa Tổng giáo phận Huế vào năm 1964 trước khi chính thức trở thành Tổng giám mục đô thành Huế bốn năm sau đó. [ Đọc tiếp ]

Tuần 34

"Nihongo" ("tiếng Nhật") viết kiểu thư pháp tiếng Nhật.

Tiếng Nhật là một ngôn ngữ Đông Á được hơn 130 triệu người sử dụng ở Nhật Bản và những cộng đồng dân di cư Nhật Bản khắp thế giới. Nó là một ngôn ngữ chắp dính (khác biệt với tiếng Việt vốn thuộc vào loại ngôn ngữ đơn lập phân tích cao) và nổi bật với một hệ thống các nghi thức nghiêm ngặt và rành mạch, đặc biệt là hệ thống kính ngữ phức tạp thể hiện bản chất thứ bậc của xã hội Nhật Bản, với những dạng biến đổi động từ và sự kết hợp một số từ vựng để chỉ mối quan hệ giữa người nói, người nghe và người được nói đến trong cuộc hội thoại. Kho ngữ âm của tiếng Nhật khá nhỏ, với một hệ thống ngữ điệu rõ rệt theo từ. Tiếng Nhật cổ nhất được biết đến chủ yếu dựa vào trạng thái của nó vào thế kỷ thứ VIII, khi ba tác phẩm chủ yếu của tiếng Nhật cổ được dịch (hai bộ sử Kojiki, Nihon Shoki và thi tập Man'yoshu); nhưng một số lượng tài liệu ít hơn, chủ yếu là chữ khắc, còn cổ hơn. Những chứng thực về tiếng Nhật cổ nhất có thể tìm thấy trong một số tư liệu thành văn của Trung Quốc từ năm 252.

Tiếng Nhật được viết trong sự phối hợp ba kiểu chữ: kanji và hai kiểu chữ tượng thanh (ghi âm tiết) - kana gồm kiểu chữ nét mềm hiragana và kiểu chữ nét cứng katakana. Kanji dùng để viết các từ Hán (mượn của Trung Quốc) hoặc các từ người Nhật dùng chữ Hán để thể hiện rõ nghĩa. Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố ngữ pháp như trợ từ, trợ động từ, đuôi động từ, tính từ... [ Đọc tiếp ]

Tuần 35

Nghĩa trang Liệt sĩ Hồng quân Liên Xô được xây dựng tại Manzhouli sau chiến tranh

Chiến dịch Mãn Châu (1945) hay Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu là một chiến dịch quân sự của Quân đội Liên Xô nhằm vào Đạo quân Quan Đông của Đế quốc Nhật Bản tại Mãn Châu, được thực hiện theo thoả thuận của Liên Xô với các nước Đồng Minh tại Hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945. Đây cũng là chiến dịch quân sự trên bộ lớn nhất trong Chiến tranh Thái Bình Dương, được bắt đầu vào ngày 9 tháng 8 và kết thúc ngày 2 tháng 9 năm 1945.

Được chỉ huy bởi một thế hệ tướng lĩnh trưởng thành trong nghệ thuật quân sự Xô Viết, Quân đội Liên Xô đã thực hành vận động chiến một cách linh hoạt ở mọi cấp độ, nhanh chóng xuyên thủng các khu vực phòng thủ ngoại vi, thọc sâu vào trung tâm, chia cắt, làm tê liệt và bức hàng đạo quân Quan Đông, kiểm soát Mãn Châu, Bắc Triều Tiên và miền Nam Sakhalin chỉ trong vòng 2 tuần, tạo tiền đề cho việc đổ bộ chiếm đóng thành công quần đảo Kuril trong thời gian ngắn sau đó.

Cùng với hai quả bom nguyên tử được ném xuống Nhật Bản ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, thành công của chiến dịch Mãn Châu đã góp phần thúc đẩy Đế quốc Nhật Bản nhanh chóng chấp nhận đầu hàng vô điều kiện, kết thúc chiến tranh và tạo thời cơ cho một loạt quốc gia châu Á giành quyền độc lập tự chủ. [ Đọc tiếp ]

Tuần 36

Đạo diễn của Your Name, Shinkai Makoto.

Your Name – Tên cậu là gì? (rút ngắn thành "Your Name") là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Nhật Bản thuộc thể loại tình cảm lãng mạn, kỳ ảo, chính kịch do Shinkai Makoto đạo diễn, được chuyển thể thành tiểu thuyết cùng tên của ông. Phim do hãng CoMix Wave Films sản xuất và Toho phát hành. Mảng thiết kế nhân vật do Tanaka Masayoshi thực hiện, phần hoạt hình do Ando Masashi chịu trách nhiệm, còn ban nhạc J-rock Radwimps phụ trách phần âm nhạc. Bộ phim kể về Mitsuha – nữ sinh trung học buồn chán với cuộc sống tẻ nhạt ở vùng thôn quê – và Taki – một chàng trai Tokyo – vì một lý do nào đó bị hoán đổi cơ thể trong khi sao chổi thiên niên kỉ đang đến gần. Phim công chiếu lần đầu tại hội nghị Anime Expo 2016 tổ chức tại Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 7 năm 2016 sau đó công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 26 tháng 8 năm 2016. Bộ phim bắt đầu khởi chiếu tại Việt Nam từ ngày 13 tháng 1 năm 2017.

Sau khi phát hành, Your Name – Tên cậu là gì? đã được giới phê bình khen ngợi nhiệt liệt cho cốt truyện và hình ảnh, và cùng với đạo diễn Makoto và nhóm nhạc Radwimps, đã giành được nhiều đề cử và giải thưởng tại Nhật Bản và cả trên thế giới, bao gồm giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Los Angeles cho phim hoạt hình xuất sắc nhất và giải thưởng Kịch bản xuất sắc nhất 2016 của Viện Hàn lâm Nhật Bản.Bộ phim cũng trở thành một hiện tượng điện ảnh tại Nhật Bản khi có doanh thu phòng vé cao nhất Nhật Bản năm 2016, là phim có doanh thu cao thứ 4 trong lịch sử Nhật Bản cũng như phim anime có doanh thu toàn cầu cao nhất mọi thời đại, trước khi Sen và Chihiro ở thế giới thần bí của Studio Ghibli công chiếu tại Trung Quốc năm 2019. [ Đọc tiếp ]

Tuần 37

Georgi Konstantinovich Zhukov

Georgi Konstantinovich Zhukov là danh tướng trong quân đội Liên Xô. Trong rất nhiều tướng lĩnh nổi danh thế giới trong Chiến tranh thế giới thứ hai, G.K. Zhukov được xếp đầu bảng về số lượng trận thắng nhiều và quy mô lớn, được nhiều người công nhận về tài năng chỉ đạo chiến dịch và chiến lược. Những chiến tích của ông đã trở thành những đóng góp rất lớn vào kho tàng di sản kiến thức quân sự nhân loại, không những có ảnh hưởng lớn về lý luận quân sự của Liên Xô mà cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của lý luận quân sự thế giới.

Theo nhận định của Nguyên soái A. M. Vasilevsky, G. K. Zhukov là một trong những nhà cầm quân lỗi lạc của nền quân sự Xô Viết. Trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Liên bang Xô viết, ông đã giữ các chức vụ Tư lệnh Phương diện quân Dự bị, Tư lệnh Phương diện quân Tây, Tư lệnh Phương diện quân Beloussia 1, Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô, Thứ trưởng Bộ dân ủy Quốc phòng kiêm Phó Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô, Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Hầu hết các nhà lãnh đạo quân sự nổi tiếng thế giới cùng thời với ông như Thống chế Anh Sir Bernard Law Montgomery, Thống tướng Hoa Kỳ Dwight David Eisenhower, Thống chế Pháp Jean de Lattre de Tassigny đều công nhận tên tuổi của ông đã gắn liền với hầu hết các chiến thắng lớn trong cuộc chiến như Trận Moskva (1941), Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagration, Chiến dịch Visla-OderChiến dịch Berlin. Trong giai đoạn sau chiến tranh, ông giữ các chức vụ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tại nước Đức, tư lệnh các quân khu Odessa và Ural. Sau khi lãnh tụ tối cao I. V. Stalin qua đời, ông được gọi về Moskva và được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Liên Xô. Trong thời gian từ năm 1955 đến năm 1957, ông giữ chức vụ Ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô. Năm 1957, trong thời gian đang đi thăm Nam Tư, ông bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1958, ông bị miễn nhiệm tất cả các chức vụ trong quân đội. [ Đọc tiếp ]

Tuần 38

Nữ ca sĩ Rihanna.

Good Girl Gone Bad: Reloadedphiên bản tái phát hành của album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna mang tên Good Girl Gone Bad (2007). Album được phát hành lần đầu dưới định dạng nhạc số tại một số quốc gia vào ngày 2 tháng 6 năm 2008 thông qua các hãng đĩa Def Jam Recordings và SRP Records. Trong album này, Rihanna đã bổ sung thêm ba bài hát mới so với album gốc cùng một đĩa DVD bao gồm những cảnh quay hậu trường được ghi lại trong quá trình thực hiện chuyến lưu diễn toàn cầu Good Girl Gone Bad Tour (2007–2009). Nhằm tạo ra các chất liệu âm nhạc mới, nữ ca sĩ đã hợp tác cùng với các nhà sản xuất thu âm quen thuộc với cô như Ne-Yo, Stargate, C. "Tricky" Stewart cùng một số các nhà sản xuất khác như Brian Kennedy, Mark Endert, Mike Elizondo, Mark "Spike" Stent và nhóm nhạc nam Maroon 5.

Good Girl Gone Bad: Reloaded đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ giới phê bình, đặc biệt cho phần âm nhạc và những chất liệu mới được bổ sung so với album gốc. Tuy nhiên, một số nhà chuyên môn lại cho rằng việc ra mắt album này là không cần thiết khi chỉ có ba bài hát mới được thêm vào. Trong số những giải thưởng và đề cử đã đạt được, ba bài hát kể trên đã nhận được hai đề cử giải Grammy tại lễ trao giải năm 2009. Đĩa đơn "Disturbia" đã giành được một đề cử giải Grammy tại hạng mục Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất, trong khi ca khúc "If I Never See Your Face Again" lại được đề cử cho hạng mục Hợp tác giọng pop xuất sắc nhất. [ Đọc tiếp ]

Tuần 39

Những thành viên cuối cùng của Destiny's Child; từ trái sang phải: Beyoncé Knowles, Kelly Rowland, Michelle Williams.

Destiny's Child là một nhóm nhạc nữ R&B người Mỹ gồm ba thành viên chính thức sau cùng là giọng nữ chính Beyoncé Knowles cùng hai thành viên là Kelly Rowland và Michelle Williams. Nhóm được thành lập năm 1997 tại Houston, Texas với tên gọi là Girl's Tyme, gồm Knowles, Rowland, LaTavia Roberson và LeToya Luckett. Vài năm sau đó, họ đã ký hợp đồng với hãng thu Columbia Records và đổi tên nhóm. Destiny's Child sau đó đã gặt hái được nhiều thành công với album phòng thu thứ hai của mình, The Writing's on the Wall, gồm hai đĩa đơn quán quân là "Bills, Bills, Bills" và "Say My Name".

Sau những thành công ấy chính là những mâu thuẫn nội bộ của nhóm, Roberson và Luckett đã kiện quản lý của nhóm là Matthew Knowles chia lợi nhuận của nhóm không đều cho các thành viên. Sau đó, nhóm đã thay thế hai thành viên mới là Williams và Farrah Franklin. Nhưng vào năm 2000, Franklin cũng đã rời nhóm và chỉ còn lại ba thành viên tiếp tục. Nhóm đã phát hành album thứ ba của mình mang tên Survivor, một trong những album thành công nhất của nhóm cùng các đĩa thành công trên thế giới như "Independent Women", "Survivor" và "Bootylicious". Vào 2002, Destiny's Child tuyên bố rằng nhóm sẽ tạm thời tan rã để mỗi thành viên có thể phát triển sự nghiệp solo của mình. Sau đó, nhóm đã trở lại vào năm 2004 với album tiếp theo mang tên, Destiny Fulfilled. Trong khoản thời gian thực hiện tour diễn thế giới của mình, nhóm đã tuyên bố rằng họ sẽ chính thức tan rã và sẽ đi theo sự nghiệp solo riêng của mình. [ Đọc tiếp ]

Tuần 40

Thierry Henry thi đấu cho đội Các ngôi sao MLS năm 2013.

Thierry Daniel Henry (sinh ngày 17 tháng 8 năm 1977) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp. Vai trò gần đây nhất của anh là huấn luyện viên của câu lạc bộ bóng đá AS Monaco. Anh đã thi đấu cho các câu lạc bộ Monaco, Juventus, Barcelona, New York Red Bulls và dành 8 năm tại Arsenal nơi anh trở thành cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất mọi thời đại cấp câu lạc bộ. Ở cấp độ đội tuyển, anh thi đấu cho đội tuyển quốc gia Pháp và cũng là một trong số những chân sút vĩ đại nhất trong màu áo lam.

Henry sinh ra tại Les Ulis, Essonne, ngoại ô thủ đô Paris, anh đã chơi cho đội bóng địa phương trong khoảng thời gian từ năm 1983-89, trước khi anh được phát hiện và ký hợp đồng với AS Monaco vào năm 1990. Anh bắt đầu sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp năm 1994 và chơi ở Monaco đến năm 1998. Phong độ tốt khi chơi bóng tại đây đã giúp anh được gọi vào đội tuyển quốc gia. Sau đó, Henry chuyển tới chơi cho nhà đương kim vô địch Serie A lúc bấy giờ là Juventus, nhưng sau một mùa giải thất vọng chơi ở vị trí tiền vệ cánh, anh gia nhập câu lạc bộ Anh Arsenal với giá chuyển nhượng 11 triệu bảng Anh năm 1999. [ Đọc tiếp ]

Tuần 41

Thảm hoạ nguyên tử Chernobyl xảy ra vào ngày 26 tháng 4 năm 1986 khi nhà máy điện nguyên tử ChernobylPripyat, Ukraina (khi ấy còn là một phần của Liên bang Xô viết) bị nổ. Đây được coi là vụ tai nạn hạt nhân trầm trọng nhất trong lịch sử năng lượng hạt nhân. Do không có tường chắn, đám mây bụi phóng xạ tung lên từ nhà máy lan rộng ra nhiều vùng phía tây Liên bang Xô viết, ĐôngTây Âu, Scandinavie, Anh quốc, và đông Hoa Kỳ. Nhiều vùng rộng lớn thuộc Ukraina, BelarusNga bị ô nhiễm nghiêm trọng, dẫn tới việc phải sơ tán và tái định cư cho hơn 336.000 người. Khoảng 60% đám mây phóng xạ đã rơi xuống Belarus. Theo bản báo cáo năm 2006 của TORCH, một nửa lượng phóng xạ đã rơi xuống bên ngoài lãnh thổ ba nước cộng hoà Xô viết. Thảm hoạ này phát ra lượng phóng xạ lớn gấp bốn trăm lần so với quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima.

Vụ tai nạn làm dấy lên những lo ngại về sự an toàn trong ngành công nghiệp năng lượng hạt nhân Xô viết, làm đình trệ sự phát triển của ngành này trong nhiều năm, đồng thời buộc chính phủ Xô viết phải công bố một số thông tin. Các quốc gia: Nga, Ukraina, Belarus, ngày nay là các quốc gia độc lập, đã phải chịu chi phí cho nhiều chiến dịch khử độc và chăm sóc sức khoẻ cho những người bị ảnh hưởng từ vụ Chernobyl. Rất khó để kiểm kê chính xác số người đã thiệt mạng trong tai nạn này, bởi vì sự che đậy thông tin thời Xô viết gây khó khăn cho việc truy ra những nạn nhân. Danh sách này không đầy đủ, và chính quyền Xô viết sau đó đã cấm các bác sĩ được ghi chữ "phóng xạ" trong giấy chứng tử. Tuy nhiên, đa số những căn bệnh nguy hiểm về lâu dài có thể dự đoán trước như ung thư, trên thực tế vẫn chưa xảy ra, và sẽ rất khó để gắn nó có nguyên nhân trực tiếp với vụ tai nạn. [ Đọc tiếp ]

Tuần 42

Thác Hopetoun, Úc.

Tự nhiên hay cũng được gọi thiên nhiên, thế giới vật chất, vũ trụ và thế giới tự nhiên là tất cả vật chấtnăng lượng chủ yếu ở dạng bản chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấp hạ nguyên tử cho tới những khoảng cách lớn trong vũ trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên, nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch ròi khỏi những hiện tượng tự nhiên.

Từ nature có nguồn gốc từ natura trong tiếng Latin, có nghĩa là "phẩm chất thuần khiết, thiên hướng bẩm sinh", và trong thời cổ đại nó có nghĩa đen là "sự sinh nở". Natura trong tiếng Latin là dịch từ physis (φύσις) trong tiếng Hy Lạp, một từ có nguồn gốc liên quan đến đặc tính nội tại của thực vật, động vật và những đặc trưng khác trong thế giới do chính người cổ đại nghĩ ra hoặc ghi chép lại. Khái niệm tự nhiên theo nghĩa tổng thể, hay vũ trụ vật chất, là một trong vài khái niệm mở rộng của khái niệm ban đầu; nó bắt đầu bằng những cách thông hiểu trọng tâm của từ φύσις bởi các triết gia trước Sokrates, và đã thu được sự chú ý dần dần theo thời gian kể từ đó. Cách sử dụng này dần được chấp nhận trong giai đoạn phát triển của phương pháp khoa học hiện đại trong vài thế kỷ qua. [ Đọc tiếp ]

Tuần 43

Dị thường nhiệt độ mặt đất trung bình thời gian 2014-2018 so với nhiệt độ trung bình 1951-1980

Ấm lên toàn cầu, nóng lên toàn cầu, hay hâm nóng toàn cầu là hiện tượng nhiệt độ trung bình của không khí và các đại dương trên Trái Đất tăng lên theo các quan sát trong các thập kỷ gần đây. Trong thế kỷ XX, nhiệt độ trung bình của không khí gần mặt đất đã tăng 0,6 ± 0,2 °C (1,1 ± 0,4 °F). Theo báo cáo của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA), nhiệt độ trung bình của Trái đất ở cuối thế kỷ XIX đã tăng +0,8 °C và thế kỷ XX tăng 0,6 ± 0,2 °C. Các dự án mô hình khí hậu của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) chỉ ra rằng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ có thể tăng 1,1 đến 6,4 °C trong suốt thế kỷ XXI. Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) nghiên cứu sự gia tăng nồng độ khí nhà kính sinh ra từ các hoạt động của con người như đốt nhiên liệu hóa thạchphá rừng làm cho nhiệt độ Trái Đất tăng lên kể từ giữa thế kỷ XX. IPCC cũng nghiên cứu sự biến đổi các hiện tượng tự nhiên như bức xạ mặt trờinúi lửa gây ra phần lớn hiện tượng ấm lên từ giai đoạn tiền công nghiệp đến năm 1950 và có sự ảnh hưởng lạnh đi sau đó. Các kết luận cơ bản đã được chứng thực bởi hơn 45 tổ chức khoa học và viện hàn lâm khoa học, bao gồm tất cả các viện hàn lâm của các nước công nghiệp hàng đầu.

Các dự án thiết lập mô hình khí hậu được tóm tắt trong báo cáo gần đây nhất của IPCC chỉ ra rằng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ có thể tăng 1,1 đến 6,4 °C (2,0 đến 11,5 °F) trong suốt thế kỷ XXI. Các yếu tố không chắc chắn trong tính toán này tăng lên khi khi các mô hình sử dụng nồng độ các khí nhà kính có độ chính xác khác nhau và sử dụng các thông số ước tính khác nhau về lượng phát thải khí nhà kính tương lai. Các yếu tố không chắc chắn khác bao gồm sự ấm dần lên và các biến đổi liên quan sẽ khác nhau giữa các khu vực trên toàn thế giới. Hầu hết các nghiên cứu tập trung trong giai đoạn đến năm 2100. [ Đọc tiếp ]

Tuần 44

Bia chiến sĩ Trận Vong, Huế

Đợt lũ lụt miền Trung Việt Nam tháng 11 năm 1999 là một đợt lũ lụt lớn xảy ra ở các tỉnh miền Trung Việt Nam vào đầu tháng 11 năm 1999. Do tác động của không khí lạnh mạnh kết hợp với dải áp thấp xích đạo, các nhiễu động trên cao và cuối cùng là áp thấp nhiệt đới, các tỉnh miền Trung Việt Nam đã phải hứng chịu những trận mưa rất lớn từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 11 năm 1999, gây ra lũ lụt nghiêm trọng, nhấn chìm nhiều huyện, thị xã, làm thiệt hại tài sản lên đến gần 3.800 tỷ đồng và số người chết là 595 người. Tỉnh chịu thiệt hại nặng nhất là Thừa Thiên - Huế, do đó trận lũ lụt đã đi vào ký ức khó phai mờ của người dân tỉnh này. Sau lũ lụt, Chính phủ Việt Nam đã tổ chức cứu trợ đồng bào vùng lũ đồng thời kêu gọi những sự hỗ trợ từ quốc tế. Nhiều quốc gia và các tổ chức trên thế giới đã cứu trợ nhằm khắc phục hậu quả do thiên tai này gây ra. Đợt mưa lũ tháng 11 năm 1999 này cũng đã xác lập nhiều kỷ lục lịch sử trong các thống kê, so sánh về thiên tai và thiệt hại thiên tai gây ra tại Việt Nam, tuy nhiên, một số kỷ lục bị các trận lũ lụt khác về sau phá vỡ. [ Đọc tiếp ]

Tuần 45

Vương quốc Macedonia vào năm 336 TCN (màu cam)

Vương quốc Macedonia hoặc Macedon là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa thời kỳ Hy Lạp Cổ xưaHy Lạp Cổ điển, và sau này trở thành quốc gia bá chủ ở Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa. Vương quốc được thành lập và ban đầu được cai trị bởi triều đại Argead, tiếp theo sau đó là nhà Antipatros và Antigonos. Vốn là quê nhà của người Macedonia cổ đại, phạm vi vương quốc ban đầu nằm tập trung ở khu vực tây bắc của bán đảo Hy Lạp, có biên giới với Ipiros về phía tây, Paeonia về phía bắc, Thrace về phía đông và Thessaly về phía nam. Trước thế kỷ thứ 4 TCN, Macedonia là một vương quốc nhỏ nằm bên ngoài khu vực bị thống trị bởi các thành bang hùng mạnh là Athens, Sparta, và Thebes, và lệ thuộc nhà Achaemenes trong một thời gian ngắn. Dưới triều đại của vị vua nhà Argead là Philip II (359–336 TCN), Macedonia chinh phục khu vực đại lục Hy Lạp và Thrace thông qua chinh phạt và ngoại giao. Cùng với một đạo quân được cách tân với nòng cốt là đội hình chiến đấu phalanx sử dụng những ngọn giáo sarissa, Philippos II đã đánh bại các thế lực bá quyền cũ là Athens và Thebes trong Trận Chaeronea vào năm 338 TCN. Người con trai của Philippos II là Alexandros Đại đế, lãnh đạo một liên minh các thành bang Hy Lạp, đã hoàn thành mục tiêu thống trị toàn bộ thế giới Hy Lạp của cha mình khi ông hủy diệt Thebes sau khi thành phố này nổi loạn. Trong chiến dịch chinh phạt tiếp theo sau đó của mình, Alexandros đã lật đổ đế quốc Achaemenes và chinh phục một vùng lãnh thổ kéo dài tới tận sông Ấn. [ Đọc tiếp ]

Tuần 46

Allen Walkernhân vật chính hư cấu trong loạt manga D.Gray-man, của họa sĩ kiêm văn sĩ người Nhật Hoshino Katsura. Trong loạt truyện lấy bối cảnh ở thế kỷ 19 này, Allen là một thiếu niên tham gia vào Tổ chức Black Order—một nhóm các chiến binh là pháp sư trừ tà. Anh sử dụng vũ khí có tên gọi là Innocence để chiến đấu với những con quỷ (Akuma). Innocence này ban đầu chính là cánh tay trái lớn bất thường của Allen; về sau nó dần tiến hóa và phát triển thêm nhiều năng lực mới. Nhờ đó, Allen có thể chiến đấu với Millennium Earl—người đã tạo ra đội quân Akuma cho mục đích hủy diệt thế giới—cùng những thành viên khác trong gia tộc Noah. Sau này, anh biết được rằng mình có mối liên hệ sâu xa với các Noah và có thể trở thành một trong số chúng.

Hoshino xây dựng hình tượng Allen dựa trên Robin, nhân vật nữ chính với mái tóc ngắn hơn anh trong one-shot Zone. Cô đã thiết kế trang phục của Allen theo phong cách thời trang thịnh hành ở thế kỷ 19, thêm vào một dải ruy băng cùng nhiều phụ kiện khác để khiến anh trông lịch lãm hơn. Ngoài ra, Hoshino còn tạo cho Allen một tính cách điềm đạm, trái ngược hẳn với các nhân vật cáu bẳn và thô lỗ trước đó của mình; đồng thời để làm anh trông đáng sợ hơn, cô còn thêm vào vết sẹo hình ngôi sao năm cánh cho Allen. Bộ manga được chuyển thể thành loạt phim anime truyền hình với phần lồng tiếng cho Allen do Kobayashi Sanae đảm nhiệm. Nhưng đến phiên bản anime chuyển thể năm 2016, D.Gray-man Hallow, Murase Ayumu đã thay thế vị trí này thay cho Kobayashi. Trong phiên bản lồng tiếng Anh của bộ phim, vai Allen được diễn viên Todd Haberkorn lồng tiếng. [ Đọc tiếp ]

Tuần 47

Một chiếc itasha chủ đề Rewrite với minh họa Kotori trong sự kiện Team Itasha Racing lần thứ 11 vào năm 2013.

Rewrite là một visual novel Nhật Bản phát triển bởi Key, một thương hiệu thuộc Visual Art's. Trò chơi phát hành ngày 24 tháng 6 năm 2011 trên hệ điều hành Windows của máy tính cá nhân (PC), phù hợp với mọi lứa tuổi. Rewrite là trò chơi thứ chín của Key, sau nhiều tác phẩm nổi tiếng khác như Kanon, AIRCLANNAD. Key phát hành thêm một fan disc với nội dung mở rộng cốt truyện trong nguyên tác mang tựa Rewrite Harvest festa! vào ngày 27 tháng 7 năm 2012 cũng trên Windows. Rewrite sau đó ra mắt bản tương thích với các hệ máy cầm tay PlayStation Portable, PlayStation Vita, PlayStation 3PlayStation 4; ngoài ra phiên bản PlayStation Vita cho Harvest festa! cũng được sản xuất. Phiên bản tiếng Anh phân phối toàn cầu qua nền tảng Steam trên Windows sẽ do Sekai Project thực hiện và phát hành. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của Tennouji Kotarou, một nam sinh có những khả năng phi thường cùng điều tra những điều huyền bí, siêu nhiên với năm nữ sinh học cùng trường. Quá trình điều tra đã kéo anh vào vòng xoáy một cuộc chiến giữa những triệu hồi sư sứ ma và những siêu năng lực gia đang tìm kiếm một cô gái tên là Kagari, người được ví như chiếc chìa khóa mở ra sự sống thông minh hoặc hủy diệt sự sống này trên Trái Đất. Cốt truyện của Rewrite đề cập đến nhiều học thuyết phức tạp như thuyết tiến hóathuyết đa thế giới, nổi bật lên thông điệp bảo vệ môi trường và sự sống của hành tinh.

Lối chơi của Rewrite đi theo một cốt truyện phân nhánh có tính tương tác với nhiều kịch bản và chủ yếu đi sâu vào nội tâm của sáu nhân vật nữ chính. Có những minigamenhiệm vụ được thêm vào suốt quá trình chơi, và người chơi phải vượt qua toàn bộ chúng mới có thể xem là hoàn thành xong visual novel. Visual novel này cũng là dự án lớn đầu tiên của Key không có sự tham gia của nhà văn Maeda Jun, và người viết chính thay thế ông là Tanaka Romeo. [ Đọc tiếp ]

Tuần 48

Chân dung Euler năm 1753 của Emanuel Handmann

Leonhard Euler (15 tháng 4 năm 1707 – 18 tháng 9 năm 1783) là một nhà toán học, nhà vật lý học, nhà thiên văn học, nhà lý luậnkỹ sư người Thụy Sĩ. Ông (cùng với ArchimedesNewton) được xem là một trong những nhà toán học lừng lẫy nhất. Ông đã có những khám phá quan trọng và rất ảnh hưởng trong nhiều ngành toán học, như vi tích phânlý thuyết đồ thị, đồng thời có những đóng góp tiên phong cho một số ngành như tô pô và lý thuyết số giải tích. Ông cũng giới thiệu nhiều thuật ngữ và ký hiệu toán học hiện đại, đặc biệt cho ngành giải tích toán học, nổi bật là khái niệm hàm số toán học. Ông cũng được biết đến với những nghiên cứu về cơ học, thủy động lực học, quang học, thiên văn họclý thuyết âm nhạc.

Euler là một trong những nhà toán học nổi tiếng nhất của thế kỷ 18 và được coi là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất trong lịch sử. Ông cũng được nhiều người coi là nhà toán học có năng suất nhất mọi thời đại. Sau khi ông qua đời, các công trình của ông được tập hợp lại trong quyển "Leonhard Euler Opera Omnia" gồm 85 quyển cỡ lớn với hơn 40.000 trang, (ước tính một người phải làm việc khoảng 40 năm mới có thể ghi lại lượng công trình này). Ông đã dành phần lớn cuộc đời của mình ở Saint Petersburg, Nga, và Berlin, khi ấy là thủ đô của nước Phổ. Một nhận xét của Pierre-Simon Laplace đã thể hiện ảnh hưởng của Euler đối với toán học: "Hãy đọc Euler, đọc Euler đi, ông ấy là bậc thầy của tất cả chúng ta." Tên của ông đã được đặt cho một miệng núi lửa trên Mặt Trăng và cho tiểu hành tinh 2002 Euler. [ Đọc tiếp ]

Tuần 49

Peter Del Vecho, nhà sản xuất; Jennifer Lee, biên kịch và đạo diễn; và Chris Buck, đạo diễn, tại buổi ra mắt phim ở Rạp El Capitan tại Hollywood, California.

Nữ hoàng băng giá là phim điện ảnh nhạc kịch kỳ ảo sử dụng công nghệ hoạt hình máy tính của Mỹ do Walt Disney Animation Studios sản xuất và Walt Disney Pictures phát hành vào năm 2013. Đây là bộ phim hoạt hình chiếu rạp thứ 53 trong series Walt Disney Animated Classics. Lấy cảm hứng từ câu chuyện cổ tích Bà chúa Tuyết của nhà văn Hans Christian Andersen, bộ phim kể câu chuyện về một nàng công chúa dũng cảm lên đường dấn thân vào một cuộc hành trình gian khó với một anh chàng miền núi cường tráng, dễ rung động nhưng ban đầu hơi thô lỗ, cùng chú tuần lộc trung thành của mình và một chàng người tuyết vui nhộn tình cờ gặp để đi tìm người chị gái đang phải sống một mình trên núi, một nữ hoàng sở hữu sức mạnh tạo ra băng giá đã vô tình khiến cả vương quốc chìm trong mùa đông vĩnh cửu.

Bộ phim phải trải qua một số lần xử lý cốt truyện trong nhiều năm, trước khi được đồng ý sản xuất vào năm 2011, với kịch bản của Jennifer Lee và hai đạo diễn là Chris Buck và Lee. Phim có sự tham gia lồng tiếng của các diễn viên Kristen Bell, Idina Menzel, Jonathan Groff, Josh GadSantino Fontana. Christophe Beck, người trước đây đã từng làm việc cho phim ngắn giành giải Oscar của Disney Paperman, được mời biên soạn nhạc nền cho bộ phim, còn bộ đôi hai vợ chồng người viết ca khúc Robert Lopez và Kristen Anderson-Lopez sáng tác các bài hát cho Nữ hoàng băng giá. [ Đọc tiếp ]

Tuần 50

Tượng bán thân Zeus ở Otricoli, tỉnh Terni, Hy Lạp.

Thần thoại Hy Lạp là tập hợp những huyền thoại và truyền thuyết của người Hy Lạp cổ đại liên quan đến các vị thần, các anh hùng, bản chất của thế giới, và nguồn gốc cũng như ý nghĩa của các tín ngưỡng, nghi lễ tôn giáo của họ. Chúng là một phần của tôn giáo Hy Lạp cổ đại và nay là một phần của một tôn giáo hiện đại lưu hành ở Hy Lạp và trên thế giới gọi là Hellenismos. Các học giả hiện đại tham khảo và nghiên cứu các truyện thần thoại này để rọi sáng vào các thể chế tôn giáo, chính trị Hy Lạp cổ đại, nền văn minh của nó cũng như để tìm hiểu về bản thân sự hình thành huyền thoại.

Thần thoại Hy Lạp được thể hiện rõ ràng trong tập hợp đồ sộ những truyện kể, và trong các tác phẩm nghệ thuật tượng trưng Hy Lạp, chẳng hạn các tranh vẽ trên bình gốm và các đồ tế lễ. Thần thoại Hy Lạp cố gắng giải thích nguồn gốc của thế giới, và kể tỉ mỉ về cuộc đời và các cuộc phiêu lưu của một tập hợp đa dạng những vị thần, nữ thần, anh hùng và những sinh vật thần thoại. Những truyện kể này đầu tiên được truyền miệng bằng thơ ca; ngày nay các thần thoại Hy Lạp chủ yếu được biết thông qua văn học Hy Lạp. [ Đọc tiếp ]

Tuần 51

Tác giả của loạt truyện, Alan Moore

Watchmen là một loạt truyện tranh gồm 12 tập do Alan Moore sáng tác nội dung, Dave Gibbons minh họa và John Higgins tô màu. Loạt truyện này được nhà xuất bản DC Comics phát hành lần đầu trong hai năm 19861987 rồi sau đó đã được tái bản nhiều lần dưới dạng truyện một tập. Watchmen có nội dung bắt nguồn từ một tác phẩm do Alan Moore đề nghị xuất bản với hãng DC Comics trong đó xuất hiện các nhân vật siêu anh hùng mà hãng này vừa mua lại bản quyền từ nhà xuất bản Charlton Comics. Do tác phẩm đề nghị của Moore có thể sẽ khiến nhiều nhân vật siêu anh hùng khó có thể được sử dụng trong các truyện tranh sau này, biên tập viên của DC là Dick Giordano đã thuyết phục nhà văn tạo ra những nhân vật siêu anh hùng hoàn toàn mới cho tác phẩm đề nghị của ông.

Moore sử dụng cốt truyện của Watchmen để phản ánh những mối lo âu đương thời của xã hội cũng như đưa ra phản đề về các nhân vật siêu anh hùng trong truyện tranh Mỹ. Watchmen lấy bối cảnh là xã hội Hoa Kỳ giai đoạn từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai tới những năm 1980 trong đó nhờ sự trợ giúp của các siêu anh hùng, nước Mỹ đã giành chiến thắng trong chiến tranh Việt NamRichard Nixon nhờ đó đã giữ vị trí Tổng thống Hoa Kỳ cho tới năm 1985. Nước Mỹ lúc này đang cận kề một cuộc chiến tranh hạt nhân với Liên Xô còn các hoạt động của các siêu anh hùng không phục vụ cho chính phủ thì đã bị đưa ra ngoài vòng pháp luật. [ Đọc tiếp ]

Tuần 52

Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910–1995) là một giám mục Công giáo Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng giáo phận Sài Gòn từ năm 1960 đến khi qua đời năm 1995. Khẩu hiệu giám mục của ông là "Hãy đi rao giảng".

Nguyễn Văn Bình sinh tại Sài Gòn, sau 10 năm theo con đường tu trì thì được gửi đi Roma du học. Sau quá trình dài 15 năm tu học, vào tháng 3 năm 1937 ông được thụ phong linh mục tại Roma. Trong thời kỳ linh mục, ông từng đảm trách vai trò giáo sư Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn, tuyên úy các sư huynh Sài Gòn, chánh xứ họ Cầu Đất và thực hiện tờ báo Tông Đồ.

Tháng 9 năm 1955, Phaolô Nguyễn Văn Bình được bổ nhiệm làm Đại diện Tông tòa Địa phận Cần Thơ. Lễ tấn phong giám mục được tổ chức tại Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn cuối tháng 11 cùng năm. Cùng với việc thiết lập hàng Giáo phẩm Việt Nam vào tháng 11 năm 1960, Nguyễn Văn Bình được chọn làm Tổng giám mục tiên khởi Tổng giáo phận Sài Gòn (từ năm 1976 đổi thành Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh).

Từ năm 1964 đến khi thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980, Nguyễn Văn Bình đảm trách chức Chủ tịch Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam. Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, Nguyễn Văn Bình đảm trách vai trò Phó Chủ tịch trong ba nhiệm kỳ liên tiếp, kéo dài từ năm 1980 đến năm 1989. Nhà nước Việt Nam truy tặng ông Huân chương Đại đoàn kết dân tộc "vì những cố gắng trong việc đưa Công giáo vào khối đại đoàn kết toàn dân". Tên ông cũng được đặt cho một con đường trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh. [ Đọc tiếp ]