Saraca asoca | |
---|---|
Hoa cây vô ưu | |
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Rosids |
Bộ (ordo) | Fabales |
Họ (familia) | Fabaceae |
Phân họ (subfamilia) | Caesalpinioideae |
Tông (tribus) | Detarieae |
Chi (genus) | Saraca |
Loài (species) | S. asoca |
Danh pháp hai phần | |
Saraca asoca (Roxb.)Willd. | |
Danh pháp đồng nghĩa[2] | |
|
Cây vô ưu (danh pháp khoa học Saraca asoca), là loài thực vật thuộc chi Vàng anh. Cây gỗ nhỡ, thường dùng làm cảnh.
Một số tài liệu hay trang mạng ghi danh pháp đồng nghĩa là Saraca indica mà không nói rõ tên người đặt nên dễ gây lầm lẫn. Saraca indica Linnaeus (thường được viết tắt là L.) do Linnaeus đặt là loài khác, dễ lẫn với cây vô ưu chứ không phải cùng loài, tức là danh pháp đồng nghĩa. Saraca indica (non Linnaeus) do người khác đặt mới đồng nghĩa với Saraca asoca.
Cây ashoka được coi là linh thiêng trên khắp tiểu lục địa Ấn Độ, đặc biệt là ở Ấn Độ, Nepal và Sri Lanka. Cây này có nhiều hội dân gian, tôn giáo và văn học trong vùng. Được đánh giá cao cũng như vẻ ngoài đẹp đẽ, màu sắc và sự phong phú của hoa, cây ashoka thường được tìm thấy trong các khu vườn và cung điện hoàng gia cũng như gần các ngôi đền trên khắp Ấn Độ.[3] Người ta tin rằng Đức Phật Thích Ca đã được sinh ra dưới một cây ashoka trong vườn lâm-tỳ-ni.
Cây ashoka gắn liền với các sinh mệnh thần thoại yakshi. Một trong những yếu tố lặp lại trong nghệ thuật Ấn Độ, thường được tìm thấy ở cổng các ngôi chùa Phật giáo và Ấn Độ giáo, là tác phẩm điêu khắc của một yakshini với chân đặt trên thân cây và tay cầm cành cây ashoka đang nở hoa. Là một yếu tố nghệ thuật, thông thường loài cây này và yakshi được cách điệuhoas nhiều. Một số tác giả cho rằng cô gái trẻ dưới chân cây này dựa trên một vị thần cây cổ đại có liên quan đến khả năng sinh sản.[4]
Các yakshi dưới gốc cây ashoka cũng rất quan trọng trong các di tích Phật giáo thời kỳ đầu như một yếu tố trang trí và được tìm thấy trong nhiều địa điểm khảo cổ Phật giáo cổ đại. Qua nhiều thế kỷ, yakshi dưới gốc cây ashoka đã trở thành một yếu tố trang trí tiêu chuẩn của người Hindu điêu khắc Ấn Độ và được tích hợp vào Kiến trúc đền thờ Ấn Độ với tên gọi salabhanjika, bởi vì thường có sự nhầm lẫn giữa cây ashoka và sala (Shorea robusta) trong văn học cổ đại tiểu lục địa Ấn Độ.[5]