Đại Nam Long tinh

(Đổi hướng từ Đại Nam Long tinh Viện)

Đại Nam Long Tinh (chữ Hán: 大南龍星), hay Nam Việt Long bội tinh (chữ Hán: 南越龍佩星),[1] còn được gọi theo tiếng Pháp: L'Ordre du Dragon d'Annam hay L'Ordre du Dragon Vert, tiếng Anh: Order of The Dragon of Annam, là một cơ chế phong thưởng cho triều thần nhà Nguyễnngười Pháp tại Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Cơ chế phong thưởng này dựa trên thể thức phong thưởng Bắc đẩu bội tinh của Pháp với điển lệ hoàng triều nhà Nguyễn do chính phủ bảo hộ đề ra dưới triều vua Đồng Khánh. Các cá nhân được phong thưởng được hợp thành Đại Nam Long Tinh Viện (chữ Nho: 大南龍星院), tương tự như Légion d'honneur của Pháp.

Đại Nam Long tinh bằng vàng.

Đại Nam Long Tinh thay thế cho cơ chế phong thưởng Kim Bội, Ngọc Bội trước đó của triều đình trước đây, nhưng triều đình vẫn duy trì ban tặng Tiền thưởng cho người có công trạng như các triều vua trước.

Nguồn gốc

Thiếu tướng Hải quân Nga Konstantin Aleksandrovich Panferov với Đại Nam Long tinh (ngoài cùng bên phải).

Theo điển lệ nhà Nguyễn, các quan lại có công, được triều đình ban thưởng kim khánh hoặc kim tiền để ghi nhận.[2] Sau khi tước bỏ chủ quyền của triều đình Đại Nam bằng Hòa ước Giáp Thân (1884), Bộ trưởng Hải quân Pháp Alexandre Peyron và Đặc sứ Pháp Jules Patenôtre đã thiết kế ra một loại huân chương dành tặng thưởng cho các viên chức có công với thuộc địa mới. Loại huân chương này được gọi là "ordre impérial du Dragon d'Annam", phỏng theo cơ chế của Bắc đẩu bội tinh. Tuy nhiên, mãi sau khi đưa vua Đồng Khánh lên ngôi, chính quyền bảo hộ Bắc và Trung kỳ mới chính thức đặt ra cơ chế bội tinh này ngày 14 tháng 3 năm 1886,[3] với lý do để đánh dấu sự hợp tác giữa triều đình Huế và nước Pháp, hay đúng ra sự can thiệp trực tiếp của chính phủ Bảo hộ vào nội bộ triều chính nhà Nguyễn.[4] Theo mốc thời gian thì cơ chế bội tinh này khai sinh 6 tháng sau khi vua Đồng Khánh được tấn phong hoàng đế dưới sự giám sát của người Pháp. Triều đình Huế sau đó buộc phải chuẩn định cơ chế bội tinh này với vài sửa đổi nhỏ. Về danh nghĩa, bội tinh do toàn quyền Hoàng đế ban cấp.

Mười năm sau, Đại Nam Long tinh được chính phủ Pháp thâu nạp là một trong bảy loại huân chương của thuộc địa.[5] Vì vậy, Đại Nam Long tinh còn được trao tặng cho các quan viên nước ngoài theo đề nghị của chính phủ bảo hộ.[6] Giấy khâm cấp cũng được bổ sung thêm phần tiếng Pháp bên cạnh phần chữ Hán.

Hệ thống cấp bậc

Hệ thống cấp bậc của Đại Nam Long tinh mô phỏng theo Bắc đẩu bội tinh của Pháp[7][8] với 5 cấp bậc, nhưng phân làm 2 ban văn võ với danh xưng riêng biệt:[9]

HạngVăn banVõ banGhi chú
1
Đệ nhất hạng
Khôi kỳ long tinhTrác dị long tinh魁奇/卓異
2
Đệ nhị hạng
Chương hiền long tinhThù huân long tinh彰賢/殊勳
3
Đệ tam hạng
Biểu đức long tinhSinh năng long tinh表德/旌能
4
Đệ tứ hạng
Minh nghĩa long tinhTưởng trung long tinh明義/獎忠
5
Đệ ngũ hạng
Gia thiện long tinhKhuyến công long tinh嘉善/勸功

Mô tả

Bài tròn Long tinh bằng bạc dành cho hạng 1, 2.

Phác thảo ban đầu của Đại Nam Long tinh do chính quyền bảo hộ Bắc Trung kỳ đặt ra có hình vuông, sau được triều đình Huế đổi lại thành hình bầu dục, ở diềm có tia tỏa ra hơi giống hình ngôi sao 8 cánh. Hạng 1 và 2 thì có 16 cánh. Phía trên bài sao, khắc mũ miện hoàng đế (kiểu châu Âu) trang sức hình rồng sắc xanh, có chân cắm ở trên mũ, làm chỗ đeo ngọc. Trong lòng hình bầu dục, khảm bằng men xanh và khắc nổi bốn chữ "Đồng Khánh hoàng đế" (同慶皇帝). Ở bốn bên, khắc nổi hình mặt trời và mây. Quanh mé ngoài hình bầu dục có khảm một đường men màu đỏ; bên mé trong, mé ngoài đường men có viền bằng 2 sợi chỉ vàng.[9][10]

Trừ Long tinh hạng 5 được làm bằng bạc, các hạng 4, 3, 2, 1 đều làm bằng vàng. Các hạng 4, 5 có đường kính rộng 4 cm; từ hạng 3, đường kính là 6 cm.

Kèm theo bội tinh còn có văn bằng (brevet),[11] gọi là giấy khâm cấp. Mẫu giấy khâm cấp, mặt trên vẽ rồng, khắc 4 chữ "Đồng Khánh", khắc ngang 5 chữ "Đại Nam Long tinh Viện" bằng chữ Hán; hai bên vẽ nghi trượng; mặt dưới vẽ hình bội tinh; nội dung viết bằng chữ Hán:

Hàng kế tiếp viết:[12]

"Tại Đại Nam quốc đô thành [tên điện] điện".

Tiếp theo là niên hiệu triều vua và sau cùng là:[9]

"cung duyệt, Lễ bộ Thượng thư ký".

Sử dụng

Bài tròn Đại Nam Long tinh với băng xanh lục viền cam ban cho các quan chức người Pháp.
Đại Nam Long tinh với cuống đeo và hoa tường vi.

Theo quy định, Long tinh 2 hạng 4, 5, đeo bên ngực trái; khác nhau ở hạng 4 có hình hoa tường vi, hạng 5 không có. Hạng 3, dây đeo to hơn, đeo ở cổ, rủ xuống trước ngực. Hạng 2, đeo bài tròn rộng 9 cm, có 8 cánh bằng bạc, giữa khảm ngọc thạch hình bầu dục như hình long tinh, đeo bên ngực phải; đeo thêm 1 Long tinh hạng 4 bên ngực trái. Riêng hạng 1, đeo băng Long tinh trắng có vân, viền cam (vàng sẫm) đối với Võ ban; xanh lục có vân viền cam (vàng sẫm) đối với Văn ban. Kích thước băng đeo giữa rộng 3,3 cm, 2 bên rộng 0,7 cm. Băng đeo từ vai phải xuống nách trái. Long tinh rộng 0,7 cm, đeo chỗ 2 dây băng giáp nhau dưới cánh tay bên trái; ngực trái đeo bài tròn giống hạng 2. Sau năm 1896, băng đeo đổi thành đỏ viền vàng ban cho các quan lại thuộc Nam triều; băng xanh lục viền cam ban cho các quan viên người Pháp.[9]

Chi riêng Hoàng đế được đeo Long tinh đệ nhất hạng, kèm theo 1 Long tinh đệ ngũ hạng; và được đeo tùy ý, miễn là dễ nhìn.[9]

Giải thể và tái lập

Khi sang nhậm chức Tổng sứ Bắc Trung kỳ (résident général de l'Annam et du Tonkin), Paul Bert được vua Đồng Khánh ban thưởng Đại Nam Long tin đệ nhất hạng. Sách Đại Nam thực lục cũng chép, vào cuối năm 1887, theo đề nghị của chính phủ bảo hộ Pháp, cấp Đại Nam Long tinh cho 191 quan viên người Pháp (hạng nhì 14 người; hạng ba 14 người; hạng tư 52 người, hạng năm 111 người) và 16 quan lại người Việt (hạng nhì: Nguyễn Hữu Độ; hạng ba: Nguyễn Trọng Hợp và Đoàn Văn Hội; hạng tư: Nguyễn Thuật, Hoàng Hữu Thường, Tôn Thất Phiên, Lê Hữu Thường, Nguyễn Chính, Lê Đĩnh, Vũ Văn Báo, Nguyễn Trần Cáp, Nguyễn Khắc Vỹ, Nguyễn Xuân Duẩn, Hồ Lệ, Hồ Đệ, Phạm Hữu Dụng, Cao Xuân Dục, Tôn Thất Hân, Trần Đình Phác; hạng năm: Tạ Tương, Tôn Thất Đề, Đào Thái Hanh). Vua Đồng Khánh thêm 3 người là Nguyễn Thân, Trương Như Cương, Tôn Thất Thế, đổi cấp 2 người Hồ Đệ và Phạm Hữu Dụng thành Đào Tiến và Ưng Quyến.

Đại Nam Long tinh Viện bị giải thể sau khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập và hoàng đế Bảo Đại thoái vị.[13] Năm 1950, khi ba nước Đông Dương đổi quy chế thành ba quốc gia trong Liên hiệp Pháp thì danh hiệu "huân chương thuộc địa" cũng lỗi thời. Tuy nhiên, quốc trưởng Bảo Đại vẫn tái lập Đại Nam Long tinh Viện để phong tặng cho các quan lại cũ trên danh nghĩa Hoàng đế. Nhưng chỉ 5 năm sau, năm 1955, quốc trưởng Bảo Đại bị thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất nên Đại Nam Long tinh Viện cũng ngưng hoạt động. Tuy vậy, rất nhiều cơ chế của Đại Nam Long tinh về sau được áp dụng vào Bảo quốc Huân chương.

Xem thêm

Chú thích

Tham khảo