Danh sách nữ đại kiện tướng cờ vua

bài viết danh sách Wikimedia

Có 39 nữ kỳ thủ cờ vua đạt danh hiệu Đại kiện tướng (Grandmaster - GM), danh hiệu cao nhất do Liên đoàn cờ vua quốc tế (FIDE) trao tặng.[A] Danh hiệu Đại kiện tướng được FIDE chính thức thiết lập năm 1950. Quy định hiện đại thường yêu cầu kỳ thủ phải có hệ số Elo tối thiểu 2500 và dành ba chuẩn GM giải đấu bao gồm chỉ số thi đấu cấp GM là 2600 để giành được danh hiệu, tuy vẫn có nhiều trường hợp ngoại lệ. Từ năm 1993, các kỳ thủ giành chức vô địch cờ vua nữ thế giới được trao trực tiếp danh hiệu Đại kiện tướng. Giống như tất cả các danh hiệu FIDE, Đại kiện tướng là danh hiệu trọn đời, không yêu cầu kỳ thủ duy trì phong độ hay phải tiếp tục thi đấu sau khi nhận.

Judit Polgár, nữ kỳ thủ có hệ số cao nhất trong lịch sử, từng là kiện tướng trẻ nhất tính cả nam lẫn nữ.

Năm 1978, vận động viên cờ vua Gruzia Liên Xô Nona Gaprindashvili là phụ nữ đầu tiên trở thành Đại kiện tướng. Chủ yếu do bà cũng là phụ nữ đầu tiên đạt chuẩn GM một năm trước đó. Năm 1991, Susan Polgár là phụ nữ đầu tiên đạt danh hiệu Đại kiện tướng thỏa mãn điều kiện 3 chuẩn dựa trên chỉ số thi đấu. Cuối năm đó, em gái bà Judit Polgár 15 tuổi trở thành đại kiện tướng trẻ nhất trong lịch sử cả nam lẫn nữ, phá kỷ lục trước đó của Bobby Fischer. Đến năm 2000 chỉ có 6 nữ đại kiện tướng và số lượng nữ chưa bao giờ vượt quá vài phần trăm tổng số các đại kiện tướng. Nhưng bước sang thế kỷ mới, số lượng phụ nữ đạt danh hiệu đã gia tăng vượt bậc. Sự tăng trưởng này giúp tổ chức các giải đấu vòng tròn chỉ dành cho nữ như FIDE Women's Grand Prix chủ yếu là các đại kiện tướng tham gia. Đồng thời, khi mà danh hiệu này không còn quá quan trọng trong việc chỉ thị đẳng cấp cao trong cờ vua nói chung, tính từ năm 2000 đến nay, Hầu Dật Phàm là nữ kỳ thủ duy nhất lọt vào 100 kỳ thủ hàng đầu, giống như Judit Polgár và Maia Chiburdanidze trước đó.

Tính đến năm 2022, tất cả nữ đại kiện tướng đều còn sống và phần lớn những nữ kỳ thủ nhận danh hiệu từ sau năm 2000 vẫn đang thi đấu. Trung Quốc và Nga có nhiều nữ đại kiện tướng nhất và 6 quốc gia có nhiều hơn một nữ đại kiện tướng. Gần như tất cả nữ đại kiện tướng đều đến từ châu Âu hoặc châu Á, chỉ có Irina Krush của Hoa Kỳ là người duy nhất đến từ châu lục khác. Kỷ lục nữ đại kiện tướng trẻ nhất của Judit Polgár đã bị Humpy Koneru lật đổ năm 2002, rồi tiếp tục bị xô ngã một lần nữa vào năm 2008 khi Hầu Dật Phàm nhận danh hiệu lúc mới 14 tuổi.

Thông tin lịch sử

Ra đời danh hiệu

Liên đoàn Cờ vua Quốc tế (FIDE) được thành lập vào năm 1924 với tư cách là cơ quan quản lý các môn cờ vua thi đấu. Khi ấy, thuật ngữ "grandmaster" đã được dùng một cách không chính thức để mô tả các kỳ thủ hàng đầu thế giới tính từ giải cờ vua Ostend 1907 khi tất cả những người tham dự đều đã thắng các giải quốc tế trước đó.[2] Không liên quan đến FIDE, Liên Xô cũng phong tặng danh hiệu Đại kiện tướng của riêng mình ngay từ năm 1927.[3] Thuật ngữ này tiếp tục được dùng không chính thức cho đến năm 1950 khi FIDE chính thức trao danh hiệu Đại kiện tướng (GM) cho 27 vận động viên hàng đầu thế giới vẫn còn sống đến thời điểm đó, trong số này không có ai là phụ nữ.[4] Nữ kỳ thủ Vera Menchik thường xuyên thi đấu với các nam kỳ thủ cao cấp, đồng thời là Nhà vô địch thế giới nữ duy nhất trước năm đó, nhưng bà đã bị giết trong Chiến tranh thế giới thứ hai nên không thuộc diện bình xét.[5]

Năm 1953, FIDE lần đầu đề ra các tiêu chí chính thức cho danh hiệu Đại kiện tướng. Các tiêu chí này bao gồm ý tưởng tiền thân cho khái niệm "chuẩn" hiện đại về yêu cầu phụ thuộc vào điểm số kỳ thủ dành được trong một số giải đấu cá nhân với tỷ lệ tham gia nhất định của kỳ thủ đã có danh hiệu.[6] Năm 1970, khi lần đầu áp dụng hệ số Elo, FIDE điều chỉnh các tiêu chí này thành chuẩn GM (khi ấy gọi là kết quả GM) tính đến hệ số trung bình kỳ thủ tham gia giải đấu.[7] Nhanh nhất là năm 1977, FIDE mới bổ sung yêu cầu rằng kỳ thủ phải có Elo 2450, ngưỡng này về sau nâng lên 2500.[4][8] Chuẩn GM hiện đại còn yêu cầu chỉ số thi đấu 2600 tính dựa trên điểm người chơi, nhưng phụ thuộc vào hệ số trung bình các đối thủ chứ không phải toàn bộ người chơi trong giải đấu.[9]

Nữ đại kiện tướng thời đầu

Chị em nhà Polgár (ảnh năm 1988) đều đạt chuẩn GM trước 20 tuổi. Susan (phải) và Judit (giữa) đều trở thành đại kiện tướng.

Bắt đầu từ thập niên 1960, Nona Gaprindashvili là phụ nữ đầu tiên kể từ Menchik được thi đấu với các kỳ thủ nam cao cấp. Sau khoảng 15 năm giữ danh hiệu vô địch thế giới nữ, tại Lone Pine International 1977, bà là phụ nữ đầu tiên đạt chuẩn GM. Gaprindashvili đạt chỉ số thi đấu 2647 và giành được 6½/9 điểm đồng hạng nhất với 3 người khác, gồm các Đại kiện tướng Yuri Sergeyevich Balashov và Oscar Panno. Năm 1978, bà hụt chuẩn GM thứ nhì khi chỉ thiếu ½ điểm. FIDE vẫn quyết định trao danh hiệu Đại kiện tướng trong hoàn cảnh nhiều thay đổi về quy tắc có thể khiến bà khó đạt được danh hiệu này về sau hơn.[10][11] Năm 1978, đồng hương Gaprindashvili là Maia Chiburdanidze kế nhiệm chức vô địch thế giới nữ và trở thành phụ nữ thứ hai giành được danh hiệu Đại kiện tướng năm 1984 nhờ 3 lần thắng trận Giải vô địch thế giới.[12] Sau đó, bà cũng là phụ nữ đầu tiên lọt danh sách 100 kỳ thủ hàng đầu, đứng thứ 43 năm 1988.[13][14]

Theo sau hai nữ Đại kiện tướng đầu tiên đến từ Gruzia, chị em nhà Polgár đã chấm dứt sự thống trị kéo dài bốn thập kỷ của Liên Xô đối với cờ vua nữ khi cả ba chị em giúp Hungary giành huy chương vàng tại Olympic cờ vua lần thứ 28 năm 1988. Susan Polgar trở thành nữ kỳ thủ hệ số cao nhất năm 1984 ở tuổi 15.[15] Năm 1988-1989, cả ba chị em Susan, Sofia và Judit Polgár đều giành được chuẩn GM đầu tiên khi còn là thiếu niên trong các giải đấu mở rộng lần lượt ở Royan, Roma và Amsterdam,[16][17][18] Đặc biệt gây chú ý là chỉ số thi đấu rất cao 2900 của Sofia, cao hơn nhiều so với chuẩn yêu cầu.[19][20][21] Judit cũng lọt vào 100 kỳ thủ hàng đầu năm 1989 khi mới 12 tuổi,[13][22] rồi đứng thứ 8 thế giới năm 2003.[23] Năm 1991, cả Susan và Judit đều đạt được danh hiệu Đại kiện tướng. Susan là nữ đại kiện tướng thứ ba và là phụ nữ đầu tiên giành danh hiệu theo 3 chuẩn GM thông thường và hệ số đáp ứng.[24] Judit đạt chuẩn GM khi chiến thắng Giải vô địch cờ vua Hungary mở rộng để trở thành nữ đại kiện tướng thứ tư. Mới 15 tuổi 5 tháng, bà cũng trở thành đại kiện tướng trẻ nhất trong lịch sử, phá kỷ lục trước đó của Bobby Fischer từ năm 1958 là 15 năm 6 tháng.[25][26] Kỷ lục cả nam lẫn nữ này được giữ trong hơn hai năm.[27] Pia Cramling và Tạ Quân giành được danh hiệu Đại kiện tướng vài năm sau đó, đồng thời là hai nữ kỳ thủ cuối cùng được phong tặng trong thế kỷ 20.[12][28] Tạ Quân là nữ đại kiện tướng đầu tiên ở bên ngoài châu Âu và cũng là đại kiện tướng thứ hai đến từ Trung Quốc tính cả nam lẫn nữ.[29][30]

Thế kỷ 21

Humpy Koneru (phải) phá kỷ lục của Judit Polgár để trở thành nữ đại kiện tướng trẻ nhất vào năm 2002, kỷ lục được duy trì đến năm 2008

Sau hơn sáu năm không có thêm nữ đại kiện tướng nào khác, sang đến thế kỷ 21 chứng kiến một số lượng lớn hơn nhiều đạt danh hiệu này. Bắt đầu với Chư Thần (諸宸) năm 2001, trong hai thập kỷ tiếp theo hiếm có năm nào mà không có thêm một nữ đại kiện tướng mới. Kỷ lục nữ đại kiện tướng trẻ nhất của Judit Polgár kéo dài hơn một thập kỷ cho đến khi bị Humpy Koneru phá vỡ vào năm 2002 khi mới 15 tuổi 1 tháng. Tiếp theo, Hầu Dật Phàm trở thành nữ đại kiện tướng trẻ nhất vào năm 2008 khi mới 14 tuổi 5 tháng.[25] Năm 2014, Hầu Dật Phàm lọt vào 100 kỳ thủ hàng đầu và đứng thứ 55 một năm sau đó.[31] Khoảng năm 2003, FIDE thay đổi quy định và bắt đầu trao danh hiệu Đại kiện tướng cho các kỳ thủ giành chức Vô địch Thế giới Nữ (nếu người đó chưa đạt).[32] Bốn nữ kỳ thủ đã trở thành đại kiện tướng theo cách này, gần đây nhất là Đàm Trung Di năm 2017.[33][34][35] Có thêm các cặp chị em đạt danh hiệu Đại kiện tướng giống như Susan và Judit Polgár, đó là nhà Kosintseva Tatiana và Nadezhda, cũng như nhà Muzychuk Anna và Mariya. Irina Krush là nữ kỳ thủ đầu tiên bên ngoài châu Âu và châu Á được trao danh hiệu này vào năm 2013.[36][37]

Khi số lượng các nữ đại kiện tướng gia tăng, có thể tổ chức các giải đấu vòng tròn chỉ dành cho nữ với sự góp mặt của hầu hết là đại kiện tướng. Có thể kể đến như FIDE Women's Grand Prix từ năm 2009 và Cúp Cairns bắt đầu năm 2019.[38][39] Chín trên mười kỳ thủ tham dự Cúp Cairns 2020 đều là đại kiện tướng.[40] Khi giải Ứng viên (Candidates tournament) được phục hồi năm 2019 để chọn người thách thức Giải vô địch thế giới tiếp theo, tất cả kỳ thủ đều là đại kiện tướng có hệ số trên 2500.[41] Trong khi tiếp tục có nhiều nữ đại kiện tướng hơn, tốc độ phụ nữ mới đạt được danh hiệu này đạt đỉnh trước thập niên 2010 ít lâu.[42] Vì tổng số từ khoảng 300 năm 1990 tăng lên hơn 1.700 năm 2020, nên tỷ lệ nữ giới vẫn chỉ chiếm không quá vài phần trăm đại kiện tướng nói chung.[43][44] Đến năm 2022, đã có tổng cộng 39 nữ đại kiện tướng.[36]

Yêu cầu danh hiệu

Anna Muzychuk (trái) cần đến 4 chuẩn để dành được danh hiệu Đại kiện tướng vì chuẩn đầu tiên chỉ đạt được qua 7 trận đấu.[45] Tatiana Kosintseva (phải) chỉ cần 2 chuẩn vì luật cũ tính chuẩn 11 trận tại giải vô địch châu Âu thành 20 trận.[46]

Quy định (2022 – nay)

Tính đến năm 2022, các yêu cầu hiện đại yêu cầu hệ số Elo tối thiểu 2500 và đạt 3 chuẩn GM thi đấu, tuy vẫn có ngoại lệ.[9]

FIDE xếp hạng kỳ thủ theo hệ số FIDE chính thức được công bố mỗi tháng. Xếp hạng này được xác định bằng cách dùng hệ thống hệ số Elo áp dụng lần đầu vào năm 1970. Hệ số phụ thuộc vào kết quả các trận thi đấu cá nhân tại những giải đấu có xếp hạng của FIDE. Với kỳ thủ trên 2400 trước đó, khi đấu với đối thủ có cùng hệ số thì sẽ nhận thêm 5 nếu thắng, 0 nếu hòa và -5 nếu thua. Các giá trị này tăng nếu đối thủ có hệ số cao hơn và ngược lại. Kỳ thủ có thể nhận thêm hoặc mất không quá 10 điểm hệ số cho một trận thắng hoặc thua tương ứng, với trận hòa thì giá trị tăng giảm không quá 5 điểm hệ số.[47] Dù hệ số FIDE chỉ được công bố vào đầu mỗi tháng, chỉ số cần có cho danh hiệu Đại kiện tướng là 2500 có thể đạt được vào giữa kỳ hoặc thậm chí là giữa giải đấu.[9]

"Chuẩn" là thành tích thi đấu cấp độ danh hiệu trong giải đấu có tính hệ số FIDE. Kỳ thủ cần có chỉ số thi đấu tối thiểu 2600 để đạt chuẩn GM tại giải. Chỉ số thi đấu phụ thuộc vào điểm thu được và hệ số trung bình các đối thủ.[B] Điểm kỳ thủ được chuyển thành chênh lệch hệ số theo bảng giá trị chuyển đổi đã công bố, chênh lệch hệ số cũng được thêm vào hệ số trung bình đối thủ để tính chỉ số thi đấu. Ví dụ: để đạt chuẩn GM trong giải đấu 9 ván,[C] kỳ thủ cần giành được 7/9 điểm trước đối thủ có hệ số 2380, 6½/9 điểm trước đối thủ hệ số 2434 hoặc 4½/9 khi hệ số đối thủ là 2600. Hơn nữa, còn có các yêu cầu khác như 1/3 đối thủ cũng phải là đại kiện tướng. Mặc dù kỳ thủ thường phải đạt 3 chuẩn GM, nhưng yêu cầu chính xác là phải chơi được 27 trận trong 3 chuẩn đó. Vì vậy, kỳ thủ có thể cần thêm 1 chuẩn nữa nếu giải đấu lại ít hơn 9 ván thông thường.[9]

Nếu thu được kết quả nhất định tại một số giải đấu cụ thể, kỳ thủ đã thỏa mãn yêu cầu này hoặc thậm chí được trao danh hiệu luôn. Đối với những nữ kỳ thủ chưa có danh hiệu thì yêu cầu dễ thấy nhất là cứ chiến thắng Giải vô địch Thế giới Nữ là sẽ trở thành Đại kiện tướng. Á quân của giải cũng nhận 1 chuẩn GM.[9][48]

Quy định trước đây

Trước đây, không phải chiến thắng Giải vô địch Thế giới Nữ lúc nào cũng mang lại danh hiệu đại kiện tướng cho nhà vô địch. Vào khoảng thời gian Maia Chiburdanidze là nhà vô địch thế giới, mỗi danh hiệu vô địch chỉ mang lại một chuẩn GM và nữ kỳ thủ cần 3 chiến thắng này hoặc các chuẩn khác để trở thành đại kiện tướng. Còn vào thời Tạ Quân thống trị làng cờ vua nữ thế giới, chỉ cần hai lần vô địch là được.[12] Bắt đầu từ năm 1993, yêu cầu rút xuống đơn giản thành chỉ cần vô địch thế giới là nghiễm nhiên trở thành đại kiện tướng.[49]

Trong quá khứ, FIDE từng tính chuẩn cho Olympiad Cờ vua và các giải vô địch châu lục là "chuẩn nhân đôi" trên 20 ván đấu. Do đó, nếu đạt chuẩn tại Olympic cờ vua nữ hoặc Giải vô địch cờ vua cá nhân nữ châu Âu (European Individual Women's Chess Championship - EWCC), nữ kỳ thủ chỉ cần giành thêm 1 chuẩn nữa cộng với thỏa mãn hệ số tối thiểu để được trao danh hiệu đại kiện tướng. Quy định dành cho thi đấu Olympic này được khởi xướng năm 2005 và kết thúc năm 2017,[9][50][51] còn quy định với các giải vô địch châu lục cũng hết giá trị vào năm 2014.[52][53] Từ năm 2003 đến 2005, với chỉ số thi đấu 2600 coi là một chuẩn GM điển hình trên tối thiểu 12 trận tại giải vô địch châu lục, nữ kỳ thủ được trao trực tiếp danh hiệu đại kiện tướng.[32][54]

Từ khóa

Header key
Đề mụcDiễn giải
Họ tênHọ tên kỳ thủ
Liên đoànLiên đoàn quốc gia hiện thời của kỳ thủ tính đến tháng 3 năm 2022. Liên đoàn quốc gia trước đây được đề cập trong ghi chú.
Ngày sinhNgày sinh kỳ thủ
TuổiTuổi kỳ thủ hiện thời
Năm trao tặngNăm mà FIDE trao tặng danh hiệu đại kiện tướng cho kỳ thủ
Thời điểm đạtThời điểm đạt yêu cầu cuối cùng để dành danh hiệu. Những trao thưởng trực tiếp (không cần thỏa mãn hết yêu cầu) được đề cập trong ghi chú. Những trường hợp chưa rõ được in nghiêng.
Tuổi đạtTuổi kỳ thủ khi đạt danh hiệu
Hệ số đỉnhHệ số cao nhất của kỳ thủ mà FIDE đã công bố trong sự nghiệp thi đấu tính đến tháng 3 năm 2022, tham khảo từ hồ sơ FIDE của kỳ thủ
WWCNăm đầu và năm cuối kỳ thủ ở ngôi vị Giải vô địch Thế giới Nữ (Women's World Champion - WWC). Nếu nhiều giai đoạn sẽ được đề cập trong ghi chú.
Đề nghịĐề nghị danh hiệu (Title Application) của kỳ thủ, liên kết chữ viết tắt tên họ ghi trong văn bản với văn bản chính thức.
Tham khảoCác tham khảo bổ sung cho đề nghị danh hiệu GM

Danh sách

Symbol key
°Kỳ thủ còn thi đấu (tính đến tháng 3 năm 2022)
List of female chess grandmasters
Họ tênLiên đoànNgày sinhTuổiNăm trao tặngThời điểm đạtTuổi đạtHệ số đỉnhWWCĐề nghịTham khảo
Bắt đầuKết thúc
Gaprindashvili, NonaNona Gaprindashvili  Gruzia[a]3 tháng 5 năm 1941821978tháng 11 năm 1978[i]37249519621978[11][56]
Chiburdanidze, MaiaMaia Chiburdanidze  Gruzia[b]17 tháng 1 năm 1961631984tháng 10 năm 1984[D]23256019781991[57]
Polgár, SusanSusan Polgár  Hungary[c]19 tháng 4 năm 1969551991tháng 1 năm 199121257719961999[24][60][61]
Polgár, JuditJudit Polgár  Hungary23 tháng 7 năm 1976471992tháng 12 năm 1991152735N/A[25][62]
Cramling, PiaPia Cramling°  Thụy Điển23 tháng 4 năm 1963611992tháng 2 năm 1992282550N/A[28][63]
Quân, TạTạ Quân  Trung Quốc30 tháng 10 năm 1970531994tháng 12 năm 1993[ii]23257419912001[α][12][64]
Thần, ChưChư Thần  Qatar[d]16 tháng 3 năm 19764820012001[E]25254820012004[67]
Koneru, HumpyHumpy Koneru  Ấn Độ31 tháng 3 năm 1987372002tháng 5 năm 2002152623N/A[25][68]
Stefanova, AntoanetaAntoaneta Stefanova°  Bulgaria19 tháng 4 năm 1979452002tháng 6 năm 200223256020042006[69]
Kosteniuk, AlexandraAlexandra Kosteniuk°  Nga23 tháng 4 năm 1984402004tháng 4 năm 2004[iii]19256120082010AK[70]
Triệu Cần, BànhBành Triệu Cần°  Hà Lan[e]8 tháng 5 năm 1968552004tháng 4 năm 2004[iv]352472N/A[72]
Dục Hoa, HứaHứa Dục Hoa  Trung Quốc29 tháng 10 năm 1976472007tháng 3 năm 2006[v]29251720062008[33]
Thanh Trang, HoàngHoàng Thanh Trang°  Hungary[f]25 tháng 4 năm 1980442007tháng 6 năm 2006262511N/AHTT
Lagno, KaterynaKateryna Lagno°  Nga[g]27 tháng 12 năm 1989342007tháng 8 năm 2006162560N/AKL[25]
Tuyết, TriệuTriệu Tuyết  Trung Quốc6 tháng 4 năm 1985392008tháng 7 năm 2007232579N/AZX
Sebag, MarieMarie Sebag°  Pháp15 tháng 10 năm 1986372008tháng 5 năm 2008212537N/AMS[74]
Soćko, MonikaMonika Soćko°  Ba Lan24 tháng 3 năm 1978462008tháng 5 năm 2008302505N/AMS
Dật Phàm, HầuHầu Dật Phàm°  Trung Quốc27 tháng 2 năm 1994302008tháng 8 năm 200814268620102017[β]HY[25]
Dzagnidze, NanaNana Dzagnidze°  Gruzia1 tháng 1 năm 1987372008tháng 9 năm 2008212573N/AND
Arakhamia-Grant, KetevanKetevan Arakhamia-Grant°  Scotland[h]19 tháng 7 năm 1968552009tháng 11 năm 2008402506N/AKAG[77]
Kosintseva, TatianaTatiana Kosintseva  Nga11 tháng 4 năm 1986382009tháng 2 năm 2009222581N/ATK
Zhukova, NataliaNatalia Zhukova°  Ukraina5 tháng 6 năm 1979442010tháng 3 năm 2010302499N/ANZ
Čmilytė, ViktorijaViktorija Čmilytė  Litva6 tháng 8 năm 1983402010tháng 3 năm 2010262542N/AVC
Danielian, ElinaElina Danielian°  Armenia[i]16 tháng 8 năm 1978452010tháng 8 năm 2010312521N/AED
Kosintseva, NadezhdaNadezhda Kosintseva  Nga14 tháng 1 năm 1985392011tháng 2 năm 2011262576N/ANK[79]
Dronavalli, HarikaHarika Dronavalli°  Ấn Độ12 tháng 1 năm 1991332011tháng 7 năm 2011202543N/AHD[80]
Văn Quân, CưCư Văn Quân°  Trung Quốc31 tháng 1 năm 1991332014tháng 10 năm 20112026042018tại vịJW[81]
Muzychuk, AnnaAnna Muzychuk°  Ukraina[j]28 tháng 2 năm 1990342012tháng 11 năm 2011212606N/AAM
Ushenina, AnnaAnna Ushenina°  Ukraina30 tháng 8 năm 1985382012tháng 12 năm 2012[vi]27250220122013[34][83]
Gunina, ValentinaValentina Gunina°  Nga4 tháng 2 năm 1989352013tháng 1 năm 2013232548N/AVG
Khotenashvili, BelaBela Khotenashvili°  Gruzia1 tháng 6 năm 1988352013tháng 5 năm 2013242531N/ABK[84][85]
Krush, IrinaIrina Krush°  Hoa Kỳ24 tháng 12 năm 1983402013tháng 9 năm 2013292502N/AIK[37]
Muzychuk, MariyaMariya Muzychuk°  Ukraina21 tháng 9 năm 1992312015tháng 4 năm 2015[vii]22256320152016[35][86]
Đĩnh Tiệp, LôiLôi Đĩnh Tiệp°  Trung Quốc3 tháng 3 năm 1997272017tháng 12 năm 2016192545N/ALT[25]
Trung Di, ĐàmĐàm Trung Di°  Trung Quốc29 tháng 5 năm 1991322017tháng 3 năm 2017[viii]25253020172018[87]
Batsiashvili, NinoNino Batsiashvili°  Gruzia1 tháng 1 năm 1987372018tháng 1 năm 2018312528N/ANB[88]
Goryachkina, AleksandraAleksandra Goryachkina°  Nga28 tháng 9 năm 1998252018tháng 2 năm 2018192611N/AAG[25]
Girya, OlgaOlga Girya°  Nga4 tháng 6 năm 1991322021tháng 3 năm 2021292505N/AOG[89]
Abdumalik, ZhansayaZhansaya Abdumalik°  Kazakhstan12 tháng 1 năm 2000242021tháng 5 năm 2021212507N/AZA[90]

Chuyển liên đoàn:

Trao danh hiệu trực tiếp:

Vô địch thế giới nhiều giai đoạn:

Theo năm

Nona Gaprindashvili (trái) là phụ nữ đầu tiên đạt danh hiệu đại kiện tướng vào tháng 11 năm 1978. Tính đến tháng 3 năm 2022, Zhansaya Abdumalik (phải) là phụ nữ gần đây nhất đạt danh hiệu này vào tháng 5 năm 2021.

Biểu đồ biểu thị tổng số nữ đại kiện tướng theo năm dựa trên thời điểm đạt danh hiệu.

Theo tuổi đạt danh hiệu

Hầu Dật Phàm (trái) là phụ nữ trẻ nhất khi đạt danh hiệu ở tuổi 14. Ketevan Arakhamia-Grant (phải) già nhất ở tuổi 40. Cả hai đều đạt danh hiệu vào năm 2008.

Biểu đồ biểu thị số lượng tích lũy nữ đại kiện tướng theo độ tuổi dựa trên thời điểm đạt danh hiệu.

Theo quốc gia

Tính đến tháng 3 năm 2022, Trung Quốc và Nga đều có 7 nữ đại kiện tướng, đứng đầu về số lượng. Trận đối đầu trong khuôn khổ Giải vô địch cờ vua thế giới nữ 2020 giữa hai đại kiện tướng: Cư Văn Quân (trái) của Trung Quốc đả bại Aleksandra Goryachkina (phải) của Nga.

Bảng liệt kê số lượng nữ đại kiện tướng còn đang thi đấu từ mỗi liên đoàn quốc gia, cũng như số lượng tất cả các nữ đại kiện tướng theo liên đoàn hiện thời, theo liên đoàn vào thời điểm đạt danh hiệu, và tổng số tổng thể. Số đại kiện tướng còn "đang hoạt động" (còn thi đấu) và số lượng "hiện thời" là tính đến tháng 3 năm 2022.

Liên đoànĐang hoạt độngHiện thờiThời điểm traoTổng thể
 Nga5767
 Trung Quốc4789
 Ukraina4445
 Gruzia3536
 Hungary1333
 Ấn Độ1222
 Hoa Kỳ1112
 Armenia1111
 Bulgaria1111
 Pháp1111
 Kazakhstan1111
 Hà Lan1111
 Ba Lan1111
 Scotland1111
 Thụy Điển1111
 Litva0111
 Qatar0101
 Liên Xô0024
 Slovenia0011
Việt Nam0001
Tổng cộng273939-

Xem thêm

Ghi chú

Tham khảo

Sách

  • Cafferty, Bernard; Taimanov, Mark (1998). The Soviet Championships [Những nhà vô địch Xô Viết] (bằng tiếng Anh) (ấn bản 1). London: Cadogan Books. ISBN 978-1-85744-201-4.
  • Di Felice, Gino (2018). Chess International Titleholders, 1950–2016 [Những người giữ danh hiệu cờ vua quốc tế] (bằng tiếng Anh). Jefferson, North Carolina: McFarland. ISBN 978-1-4766-3361-9.
  • Graham, John (1987). Women in Chess: Players of the Modern Age [Phụ nữ chơi cờ vua: Kỳ thủ thời hiện đại] (bằng tiếng Anh). Jefferson, North Carolina: McFarland. ISBN 978-0-89950-232-8.
  • Harkness, Kenneth (1956). The Official Blue Book and Encyclopedia of Chess [Sách xanh và Bách khoa toàn thư cờ vua chính thức] (bằng tiếng Anh). New York: David McKay Company. LCCN 56014153. OCLC 1578704.
  • Keene, Raymond; Levy, David (1970). Siegen Chess Olympiad [Olympic Cờ vua Siegen] (bằng tiếng Anh) (ấn bản 1). Sutton Coldfield: Chess Ltd. LCCN 72940860. OCLC 251568420.
  • O'Connell, Kevin biên tập (1977). Batsford's FIDE Chess Yearbook 1976/7 [Niên giám cờ vua FIDE 1976/7 của Batsford] (bằng tiếng Anh). London: Batsford. ISBN 978-0-7091-4697-1.
  • Polgár, Judit (2012). Judit Polgar – How I Beat Fischer's Record [Judit Polgár - Tôi đã phá vỡ kỷ lục của Fischer như thế nào] (bằng tiếng Anh). Glasgow: Quality Chess. ISBN 978-1-907982-19-4.
  • Shahade, Jennifer (2022). Chess Queens: The True Story of a Chess Champion and the Greatest Female Players of All Time [Nữ hoàng cờ vua: Chuyện thật về nhà vô địch cờ vua và những nữ kỳ thủ vĩ đại nhất mọi thời đại] (bằng tiếng Anh). London: Hodder & Stoughton. ISBN 978-1-3997-0137-2.
  • Sunnucks, Anne (1970). The Encyclopaedia of Chess [Bách khoa toàn thư cờ vua] (bằng tiếng Anh). New York: St. Martins Press. ISBN 978-0-7091-4697-1.
  • Tanner, Robert (2016). Vera Menchik: A Biography of the First Women's World Chess Champion, with 350 Games [Vera Menchik: Tiểu sử nhà vô địch cờ vua thế giới nữ đầu tiên, với 350 trận đấu] (bằng tiếng Anh). Jefferson, North Carolina: McFarland. ISBN 978-0-7864-9602-0.
  • Xie, Jun (1998). Chess Champion from China: The Life and Games of Xie Jun [Nhà vô địch cờ vua từ Trung Quốc: Cuộc đời và những ván đấu của Tạ Quân] (bằng tiếng Anh). London: Gambit Publications. ISBN 978-1-901983-06-7.

Liên kết ngoài