Hệ thống phòng không vác vai

vũ khí tên lửa đất đối không có thể mang vác trên vai

Hệ thống tên lửa phòng không vác vai/Man-portable air-defense systems (MANPADS hay MPADS) là một hệ thống tên lửa đất đối không có khả năng mang vác. Đây là hệ thống vũ khí có điều khiển và là mối đe dọa với các mục tiêu bay thấp, nhất là với trực thăng.

Tên lửa phòng không vác vai 9K32 Strela-2.

Tổng quan

MANPADS đã được phát triển vào những năm 1950s để đem lại khả năng phòng không chống máy bay phản lực cho lực lượng bộ binh mặt đất. Đây là một loại vũ khí nhận được nhiều sự quan tâm, nhất là các nhóm khủng bố, sử dụng chúng để bắn vào các máy bay dân sự. Những tên lửa này, với giá cả phải chăng và được cung cấp rộng rãi từ nhiều nguồn khác nhau, đã trở thành một loại vũ khí rất thành công trong ba thập kỷ qua, cả trong các cuộc xung đột quân sự và cả được sử dụng bởi các tổ chức khủng bố.[1]

Có 25 quốc gia, bao gồm Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Ba Lan, Thụy Điển, Nga và Iran sản xuất các hệ thống phòng không mang vác.[2][3] Việc sở hữu, xuất khẩu và buôn bán tên lửa phòng không vác vai được kiểm soát chặt chẽ do mối đe dọa mà chúng gây ra cho ngành hàng không dân dụng, mặc dù những nỗ lực như vậy không phải lúc nào cũng thành công.[4][5]

Tên lửa có chiều dài khoảng 1,5 đến 1,8 m (5 đến 6 ft) và nặng khoảng 17 đến 18 kg (37 đến 40 lb), tùy thuộc vào kiểu tên lửa. MANPADS thường có phạm vi phát hiện mục tiêu vào khoảng 10 km (6 dặm) và phạm vi tiếp cận khoảng 6 km (4 dặm), vì vậy máy bay bay ở độ cao 6.100 mét (20.000 ft) trở lên tương đối an toàn trước tên lửa phòng không vác vai.[6]

Các hệ thống tên lửa phòng không mang vác

Tên lửa FIM-43C Redeye phóng nguội từ ống phóng trước khi động cơ chính của nó được kích hoạt.
Tên lửa SA-18 (Igla) cùng với ống phóng và tay cầm (bên trên) và SA-16 (Igla-1) cùng với ống phóng (ảnh dưới)
Quân đội Nhật Bản với hệ thống MANPADS Type 91.
Tên lửa Starstreak SAM đang phóng lên từ xe phòng không M1097 AN/TWQ-1 Avenger.

Tên lửa hồng ngoại

Tên lửa mang Đầu dò hồng ngoại được thiết kế để dẫn tên lửa vào nguồn hồng ngoại trên máy bay, thông thường là động cơ của máy bay, và kích nổ đầu đạn ở gần nguồn nhiệt để phá hủy máy bay. Những tên lửa này sử dụng phương pháp dẫn đường bị động, tức là nó không phát ra bất kỳ tín hiệu nhiệt nào, khiến nó khó bị phát hiện hơn.[7]

Thế hệ đầu tiên

Các tên lửa phòng không mang vác lần đầu được triển khai vào những năm 1960s có thiết kế với đầu dò hồng ngoại. MANPADS thuộc thế hệ đầu, ví dụ như Redeye của Mỹ, hay 9K32 Strela-2 của Liên Xô, và HN-5 của Trung Quốc (bản sao chép của Strela-2 của Liên Xô), được thiết kế để bắn đuổi theo mục tiêu, do đầu dò của tên lửa không được làm lạnh, dẫn đến nó sẽ chỉ có thể bắt mục tiêu qua nguồn bức xạ nhiệt lớn của động cơ máy bay từ phía sau. Có nghĩa là nó chỉ có khả năng bắt mục tiêu máy bay chính xác từ phía sau khi nguồn nhiệt từ động cơ thể hiện rõ ràng trước đầu dò hồng ngoại của tên lửa và cung cấp cho đầu dò tín hiệu bức xạ nhiệt đủ mạnh để có thể tiêu diệt mục tiêu. Các thế hệ tên lửa đầu dò hồng ngoại đầu tiên cũng bị nhiễu từ các nguồn nhiệt lớn trên nền phía sau mục tiêu, như Mặt trời, khiến tên lửa trở nên không đáng tin cậy, tên lửa cũng tương đối thất thường ở giai đoạn tiếp cận mục tiêu.[8] Dù vậy loại tên lửa thế hệ đầu vẫn được sử dụng do không bị giới hạn bởi vòng đời ngắn của bộ phận làm lạnh bằng khí, sử dụng trên các thế hệ tên lửa sau này.

Thế hệ 2

Các tên lửa phòng không mang vác thế hệ 2 với tiêu biểu là tên lửa Stinger của Mỹ, 9K34 Strela-3 của Liên Xô, và FN-6 của Trung Quốc, sử dụng đầu dò tầm nhiệt có làm lạnh bằng khí và quét hình côn, giúp đầu dò ít bị nhầm với nguồn bức xạ nhiệt từ nền cũng như có khả năng tiêu diệt mục tiêu từ phía đối đầu hoặc cạnh bên. Các phiên bản mới hơn của FIM-43 Redeye được cho là nằm trung gian giữa thế hệ 1 và 2 do chúng đã có đầu dò được làm mát nhưng vẫn sử dụng đầu dò quét quayare regarded as straddling the first and second generations as they are gas-cooled but still use a spin-scan seeker.[cần dẫn nguồn]

Thế hệ 3

MANPADS thế hệ thứ 3 như Mistral của Pháp, 9K38 Igla của Liên Xô, và Stinger B của Mỹ, sử dụng bộ thu kiểu rosette scanning để tạo ra hình ảnh gần giống của mục tiêu. Đầu dò của tên lửa so sánh tín hiệu thu được với dải tín hiệu mục tiêu đã được lập trình sẵn, sử dụng cả dải sóng hồng ngoại hoặc hồng ngoại kết hợp với tử ngoại, giúp tên lửa có khả năng đối phó tốt với các mồi bẫy nhiệt được thả từ máy bay mục tiêu.[6][8]

Thế hệ 4

Tên lửa phòng không mang vác thế hệ 4 ví dụ FIM-92 Stinger Block 2, Verba của Nga, QW-4 của Trung Quốc, VSHORAD của Ấn Độ và Type 91 của Nhật, sử dụng hệ thống dẫn đường cảm biến ảnh nhiệt cảm nhận ánh sáng nằm ở mặt phẳng tiêu cự đầu dò cùng với một số hệ thống cảm biến tiên tiến khác, cho phép tên lửa có thể đối phó với mục tiêu bay ở cự ly lớn hơn nhiều.[9]

Điều khiển bằng lệnh qua đường ngắm-Command line-of-sight (CLOS)

Lệnh điều khiển tên lửa không nhằm trực tiếp vào mục tiêu phát ra nguồn nhiệt, sóng vô tuyến hay máy phát sóng radar. Thay vào đó người điều khiển phóng tên lửa bằng cách quan sát mục tiêu bằng mắt thông qua ống ngắm và sử dụng bộ điều khiển vô tuyến để phóng tên lửa về phía máy bay. Một ưu điểm của điều khiển tên lửa bằng cách này là nó sẽ miễn nhiễm với các biện pháp đối phó như pháo sáng hay các biện pháp đánh lừa khác nhằm vào tên lửa tầm nhiệt. Hạn chế lớn nhất của kiểu tên lửa điều khiển bằng lệnh vô tuyến là nó cần kỹ năng cao của người điều khiển tên lửa. Nhiều báo cáo từ Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan trong những năm 1980 cho biết phiến quân mujahedin Afghanistan thất vọng với tên lửa tên lửa phòng không mang vác Blowpipe CLOS do Anh cung cấp vì nó quá khó để học cách sử dụng và có độ chính xác cao, đặc biệt khi được sử dụng để chống lại máy bay phản lực tốc độ cao.[10] Do đó, nhiều chuyên gia tin rằng tên lửa điều khiển bằng lệnh qua đường ngắm CLOS không phù hợp cho người chưa qua đào tạo như tên lửa IR, đôi khi được gọi là tên lửa "bắn và quên".[11]

Các phiên bản tên lửa CLOS nâng cấp, như tên lửa Javelin của Anh, sử dụng cảm biến quang truyền hình tinh thể rắn thay cho đầu dò quang học, giúp xạ thủ theo dõi mục tiêu dễ dàng hơn. Nhà phát triển của tên lửa Javelin là Thales Air Defence tuyên bố rằng tên lửa của họ miễn nhiễm với các biện pháp đối phó.[12]

Dẫn đường bằng Laser

Các MANPADS dẫn đường bằng laser sử dụng phương pháp dẫn đường bằng chùm tia, theo đó cảm biến trên đuôi tên lửa phát hiện bức xạ laser phát từ ống phóng tên lửa và sẽ lái tên lửa chính xác vào giữa tâm chùm tia laser. Các loại tên lửa phòng không vác vai như RBS-70 của Thụy Điển và Starstreak của Anh có khả năng giao chiến với mục tiêu máy bay từ mọi góc độ và chỉ cần người điều khiển liên tục bám theo mục tiêu bằng cần joystick để điều khiển chùm tia laser chiếu trúng vào mục tiêu. Các phiên bản nâng cấp mới nhất của RBS 70 có thêm tính năng "tracking engagement" mà khi sử dụng chế độ này việc điều chỉnh mục tiêu chính xác của bộ phát laser được xử lý bởi chính bệ phóng và người dùng chỉ phải thực hiện các điều chỉnh mục tiêu bước đầu. Do không có liên kết dữ liệu vô tuyến từ mặt đất đến tên lửa nên tên lửa không thể bị gây nhiễu sau khi phóng. Mặc dù tên lửa điều khiển theo chùm tia đòi hỏi kíp trắc thủ phải được huấn luyện và có kỹ năng vận hành, nhưng nhiều chuyên gia đánh giá tên lửa điều khiển bằng laser đặc biệt đáng sợ do tên lửa có khả năng chống lại hầu hết các biện pháp đối phó thông thường đang được sử dụng hiện nay.[13][14]

Các biện pháp đối phó

Hệ thống 9K38 Igla đặt trên xe tải của quân đội Mexico

Hệ thống tên lửa phòng không mang vác là một mặt hàng tương đối phổ biến trên chợ đen mà các lực lượng nổi dậy có thể dễ dàng mua được và đe dọa tới sự an toàn của các chuyến bay thương mại.[15]

Hiểu rõ vấn đề, năm 2003, Ngoại trưởng Colin Powell lưu ý rằng tên lửa đất đối không mang vác là mối đe dọa lớn nhất đối với ngành hàng không,[16] vốn có khả năng được sử dụng để bắn hạ máy bay trực thăng và máy bay chở khách thương mại, với chi phí mỗi hệ thống tên lửa chỉ vài trăm đô la Mỹ. Hoa Kỳ là nước đi đầu trong nỗ lực nhằm loại biên những loại tên lửa này, với hơn 30.000 hệ thống được phá hủy tính từ năm 2003, nhưng vẫn còn hàng nghìn hệ thống vẫn còn đang nằm trong tay của các tổ chức nổi dậy và khủng bố, đặc biệt là tại Iraq, nơi mà các hệ thống tên lửa phòng không vác vai được tuồn ra ngoài chợ đen từ kho vũ khí của nhà lãnh đạo Saddam Hussein,[17][18] cũng như ở Afghanistan. Tháng Tám năm 2010, một bản báo cáo của Federation of American Scientists (FAS) xác nhận đã thu hồi một số MANPADS từ lực lượng khánh chiến tại Iraq năm 2009.[19]

Quân sự

Với việc gia tăng số vụ tấn công máy bay chở khách bằng tên lửa phòng không mang vác, một số hệ thống đối phó đã được phát triển đặc biệt cho máy bay để tự vệ trước tên lửa phòng không mang vác.[cần dẫn nguồn]

  • Các hệ thống do Mỹ sản xuất AN/ALQ-144, AN/ALQ-147AN/ALQ-157, phát triển bởi Sanders Associates những năm 1970s.
  • Các hệ thống do BAE Systems và Northrop Grumman phát triển cho NATO bao gồm AN/ALQ-212 ATIRCM, AN/AAQ-24 Nemesis.

Dân sự

  • Hệ thống phòng thủ Civil Aircraft Missile Protection System (CAMPS)— Được phát triển bởi Saab Avitronics, Chemring Countermeasures và Naturelink Aviation, sử dụng mồi bẫy hồng ngoại.

Các loại tên lửa phòng không mang vác của các nước

Huấn luyện với MANPADS
Tên lửa đang được đẩy ra khỏi ống phóng MANPADS
Hệ thống pháo/tên lửa phòng không kết hợp HS M09 đặt trên xe thiết giáp BOV-3 với 8 tên lửa Strela 2

Xem thêm

  • Anti-aircraft warfare
  • Infrared countermeasure
  • Aerial countermeasures
  • Civil Aircraft Missile Protection System
  • Flight Guard
  • Northrop Grumman Guardian
  • Man-portable anti-tank systems

Tham khảo

Portions of this article were taken from Homeland Security: Protecting Airliners from Terrorist Missiles Lưu trữ 5 tháng 6 2008 tại Stanford Web Archive, CRS Report for Congress RL31741, February 16, 2006 by the Congressional Research Service, division of The Library of Congress which as a work of the Federal Government exists in the public domain.

Liên kết ngoài