Haskell (ngôn ngữ lập trình)

Haskell là một ngôn ngữ lập trình thuần hàm, đặt theo tên của Haskell Curry. Vì là ngôn ngữ lập trình hàm, trong Haskell, hàm là "cư dân hạng nhất", với hầu hết các cấu trúc điều khiển là hàm.

Haskell
Logo of Haskell
Mẫu hìnhThuần hàm
Thiết kế bởiLennart Augustsson, Dave Barton, Brian Boutel, Warren Burton, Joseph Fasel, Kevin Hammond, Ralf Hinze, Paul Hudak, John Hughes, Thomas Johnsson, Mark Jones, Simon Peyton Jones, John Launchbury, Erik Meijer, John Peterson, Alastair Reid, Colin Runciman, Philip Wadler
Xuất hiện lần đầu1990; 34 năm trước (1990)[1]
Phiên bản ổn định
Haskell 2010[2] / tháng 7 năm 2010; 13 năm trước (2010-07)
Bản xem thử
Haskell 2020 announced[3]
Kiểm tra kiểuInferred, kiểu tĩnh, strong
Hệ điều hànhĐa nền tảng
Phần mở rộng tên tập tin.hs, .lhs
Trang mạngwww.haskell.org
Các bản triển khai lớn
GHC, Hugs, NHC, JHC, Yhc, UHC
Phương ngữ
Gofer
Ảnh hưởng từ
Clean,[4] FP,[4] Gofer,[4] Hope and Hope+,[4] Id,[4] ISWIM,[4] KRC,[4] Lisp,[4] Miranda,[4] ML and Standard ML,[4] Orwell, SASL,[4] Scheme,[4] SISAL[4]
Ảnh hưởng tới
Agda,[5] Bluespec,[6] C++11/Concepts,[7] C#/LINQ,[8][9][10][11] CAL,[cần dẫn nguồn] Cayenne,[8] Clean,[8] Clojure,[12] CoffeeScript,[13] Curry,[8] Elm, Epigram,[cần dẫn nguồn] Escher,[14] F#,[15] Hack,[16] Idris,[17] Isabelle,[8] Java/Generics,[8] LiveScript,[18] Mercury,[8] Ωmega, PureScript,[19] Python,[8][20] Raku,[21] Rust,[22] Scala,[8][23] Swift,[24] Visual Basic 9.0[8][9]

Lịch sử

Năm 1987, trong hội nghị về ngôn ngữ lập trình hàm và kiến trúc máy tính (FPCA) diễn ra tại ở bang Oregon, Hoa Kỳ, một hội đồng với nhiệm vụ hợp nhất các ngôn ngữ lập trình hàm đã được thành lập. Đến năm 1990, phiên bản đầu tiên của Haskell ra đời (Haskell 1.0). Trong các năm sau đó, các phiên bản tiếp theo (1.1 đến 1.4) lần lượt được ra mắt. Tới năm 1998, Haskell được tiêu chuẩn hóa dưới cái tên Haskell 98. Phiên bản mới nhất của Haskell là Haskell 2010, giới thiệu vào tháng bảy 2010.

Tham khảo